V-CÁC CẢNH GIỚI: CHÍN CẢNH GIỚI THIÊN LINH


               BA ĐẠI GIỚI
Con người chúng ta được Thượng đế cho ở Ba Đại giới, có ba tầng, đó là: Hạ giới, Trung giới, Thượng giới.
Hạ giới: Là thế giới chúng ta đang sống, là trường học lớn và trường học cuối cùng của con người, để trở về Thượng giới. Chỉ ở đây chúng ta mới tiến hóa hoàn thiện. Khi chưa hoàn thiện, con người còn phải luân qua các kiếp, đi và trở lại Hạ giới. Cứ như thế, cho đến khu thành đại mỹ, đại thiện, đại minh, trở về với Thượng đế.
Trung giới: Là cõi trung gian giữa Hạ giới và Thượng giới, gồm các cảnh giới từ một đến bảy; đây là cõi của linh hồn trú ngụ. Sau khi chết ở Hạ giới, chúng ta trở về các cảnh giới này, tiếp tục tiến hóa, học hỏi, để trở về Hạ giới đầu thai, để tiến hóa quyết định, đưa thế giới loài người lên Thiên đường Hạ giới, kết thúc quá trình tiến hóa.
Như vậy: Trung giới chỉ là “trạm trung chuyển” mà thôi. Linh hồn ở Trung giới còn phải luân hồi qua các kiếp, có khi đường đi của một linh hồn-con người tới hàng vạn vạn năm, qua hàng trăm ngàn kiếp khác nhau!
Thượng giới: Thuộc cảnh giới thứ Tám, Chín. Nơi đây là Thiên đường. Thượng đế-Cha kính yêu của chúng ta ngự ở cảnh giới thứ Chín-Trung tâm của Vũ trụ-nơi khu vực sao Bắc Cực. 

                                     CHÍN CẢNH GIỚI THIÊN LINH

CẢNH GIỚI THỨ NHẤT:
Đây là cảnh giới thấp nhất-Vị trí trên địa tầng Hạ giới, có môi trường điện-từ trường thấp, sóng từ trường nặng nề, chậm chạp. Ở đây thuộc môi trường rất hồn độn, lộn xộn, ánh sáng hạn chế. Nơi đây chỉ có thể chứa đựng các linhn hồn có bước sóng chậm, thể vía nặng nề. Bao gồm: Các bọn người vô cùng tàn ác, tham, hận; bọn tội phạm, bọn phản Thượng đế, phản đạo, bọn tù tội, nghiện ngập các loại; bọn tham vọng và khát vọng chống sự tiến bộ của loài người, chống lại Chân lý của Thượng đế.
Bọn này khi còn sống, có quá nhiều nghiệp quả nặng nề, những lạc thú tầm thường, những tội ác và tham vọng bất chính với các hành động tương ứng, đã làm cho thể vía của chúng dày, đen, nặng nề, với các thông tin ô trọc, xấu xa. Theo qui luật tất yếu của tự nhiên, chúng bị đẩy xuống tầng nguyên khí thấp nhất và còn bị hành hạ. Bọn chúng còn đầy những tham vọng và các suy nghĩ như còn sống, vì thể vía nặng nên sự trì độn lớn, chúng sợ ánh sáng, sợ các loại tác động sóng bậc cao, sóng ánh sáng, chỉ ru rú và di chuyển vào ban đêm, sợ ban ngày.
Vì còn quá nhiều tham vọng nhục dục do thể vía hành hạ, nên chúng khát khao và có những đòi hỏi bản năng như con người ở trần thế. Nhưng vì thể xác đã tan rã, không còn cơ sở vật chất hạ đẳng để hấp thụ vật chất thông thường ( ăn, sinh lý, tiêu hóa, xúc giác, vị giác), nên chúng không thể ăn uống sinh họat được như người còn sống. Do vậy, đó là một sự tra tấn khủng khiếp nhất đối với họ. Họ chỉ suy nghĩ trong tư tưởng, không được hưởng thụ nên vô cùng đau khổ, họ phải đấu tranh với bản năng dữ dội. Mặt khác, thể vía nặng, bị sức tác động của nguồn nguyên năng trên cao, của Thượng đế, nên các linh hồn bị “tấn công”, bị tan rã rất đau đớn. Đây thực sự là địa ngục đau khổ và hối hận lương tâm (Chứ địa ngục thật sự thì Thượng đế đã bỏ rồi). Đồng thời, đây là điều khủng khiếp nhất: Do tư tưởng, bản năng xấu xa chi phối, nên hình tưưởng của bọn họ tạo ra các thân hình tương ứng rất kinh khiếp: Những hình nửa thú nửa người, những tội phạm thù hận với bộ mặt khủng khiếp, những hình dáng xấu xa không lành lặn. Dù có được người thân cầu cúng những thức ăn vật chất thì họ đâu có ăn được! Mà chỉ hít ngửi qua phần hơi cho đỡ thèm khát mà thôi! Họ phải tự hưởng thụ bằng cách dẫn nhập và bắt sóng với tình cảm, tư tưởng của người sống đang hưởng thụ để thấy lại cảm giác được hưởng thụ. Đây là điều rất khổ sở và lương tâm vò xé ân hận! Với tất cả các hưởng thụ, các nhu cần về bản năng, tham vọng khác cũng thế: Sinh họat tình dục, quyền lực, tội ác, giết chóc, thù hận. Muốn thỏa mãn, có hai cách: Bọn chúng tìm cách xuất nhập vào người sống, để sai khiến họ làm điều bậy bạ, để thỏa mãn thú tính. Điều này rất dễ, nếu bọn chúng tìm được người có cùng bản tính như thế, theo qui luật tương ứng. Đặc biệt, khi người bị say rượu, say nghiện bị chúng sai khiến dễ nhất, dễ gây tội ác.
Cách hai: Bọn chúng tự giải quyết nhu cầu bản năng, bằng cách nhập vào người có đặc tính hành động như thế, để “hưởng thụ” cảm giác nhu cầu; thậm chí chúng nhập cả vào các loài thú vật. Và theo qui luật, thể vía của loại này sẽ tương ứng với thú vật, nên khi Thượng đế và đức Mẫu Vương soi xét, thì chúng sẽ được đầu thai trở lại thế giới loài vật! Bọn chúng khi đói cái gì, thì tìm cách đi tìm cái đó để thỏa mãn. Nên những nơi có việc xảy ra phù hợp là có mặt chúng: Nơi ăn uống, tai nạn đổ máu, các vụ ẩu đả, các nơi cụp lạc, nơi có quyền lực tranh dành và thù hận, nơi có sự đố kỵ vô nhân, những thứ tư tưởng cặn bã tanh hôi đi ngược lại tiến hóa của loài người là chúng có mặt. Nguy hiểm nhất là chúng tìm cách trả thù người tốt, bằng cách xui người xấu làm hại người tốt, làm người tốt mang họa ( đây là lý do giải thích các hiện tượng: Tại sao người tốt lại thường bất hạnh khổ đau! Còn bọn ác nhân đôi khi lại rất thành đạt, mang tính bầy đàn!). ( Chỉ có theo Đạo, được Thượng đế và các phép của Thiên Linh và các đạo chân chính mới có thể tránh được làm hại. Bọn tà ma tạo ra cũng chính là Mặt tối của tư tưởng con người ( cả cõi Thiên Linh và cõi Hạ giới). Ta gọi chung các mặt tối ấy là Nước Quỉ. Và cảnh giới Thứ Nhất chính là một địa ngục-quê hương của Nước Quỉ này. Bọn tà ma quỉ ác ở đây không ai tạo ra chúng, mà do nghiệp quả tương ứng, mà khi chết đi chúng bị rơi vào cảnh giới thấp này.
Ngày xưa, Thượng đế dùng Diêm Vương lập ra địa ngục để tra xét, cho vào địa ngục bọn ác tội này, nhưng vì làm thế, chúng không tiến bộ là bao, nên mở cửa địa ngục cho chúng phải “vật lộn với địa ngục tự nhiên” của chính cảnh giới thấp này, để chúng dần tan rã thể vía xấu xa, dần thăng lên cảnh cao hơn. Con đường tiến hóa của bọn này rất chậm. Có khi chúng phải lưu lại ở cảnh giới này hàng trăm năm mới siêu thoát lên trên; và phải mất nhiều năm nữa mới thoát hóa lên đến các cảnh giới cao hơn để đầu thai trở lại Hạ giới, có khi làm loài vật.
Chúng luôn tìm cách đầu thai trở lại Hạ giớu, nhưng không lọt được quyền phép của Thượng đế.
Bọn xấu xa ở cảnh này luôn bị các thần linh canh, xét; dù không bị nhốt vào tù ngục, nhưng những tên tội phạm xấu xa, tàn ác, có thể bị các thần linh trói lại, bị các nhân linh phỉ nhổ, chửi bới, bị bỏ đói, bị hạ nhục, cho đến khi sáng mắt ra, phải sám hối. Có lúc bọn họ ân hận, tìm cách tác động, báo hiện người thân cầu niệm để giải thoát cho chúng. Đây là bài học rất đắt, rất quí, rất cần thiết mà Đức Cha Chí Tôn vĩ đại và Mẫu Vương vĩ đại mở lòng phát tâm lành, dạy bảo bọn này. Trường Giáo Linh cũng sẽ trực tiếp giáo hóa bọn này, theo ý chí và quyền phép của Thượng đế, để chúng tiến bộ. Chỉ khi tiến bộ, được đạo pháp soi sáng, chúng mới được thăng lên các cảnh giới cao hơn, rút ngắn thời gian lưu lại các cảnh thấp này. Điều này rất quan trọng, nhanh siêu thoát-nhất là tránh được nỗi khổ đau vô cùng vô tận của một linh hồn tiến hóa thấp.
Thế giới người âm còn ở ngang ngay bên chúng ta, họ sống bên cạch và ở trên cao hơn Hạ giới. Thế giới vô hình-hay thế giới Thiên Linh là cách gọi chính xác nhất.
  Trong các hang động đen tối, trong các hộc cây, bụi tối, trong các đình đền chùa miếu cũ, hoặc nơi các thờ tự loại này mà con người chen lấn cúng dường, đầy rẫy tham vọng cầu xin, đầy của ăn, lộc cúng…là nơi trú ngụ của các linh hồn đói khát này. Trong cõi âm ty dưới đất, cũng có loại này, họ đi xuyên xuống dưới, đến cảnh mật độ của họ có thể chịu được, vì mặt trời trung tâm trái đất chính là nơi Linh hồn Mẫu Địa ngự là khối Nguyên năng thuộc cảnh giới Tám, Chín, rất đặc, cứng, rung động nhanh…không phù hợp với chúng. Ta nên nhớ, ngay trong trái đất cũng đủ 9 tầng thứ cảnh giới mật độ khác nhau-nhưng với lý luận của chúng ta, thì cảnh Chín của Thiên đường phải là đồng nghĩa với Trung tâm Vũ trụ.
  CẢNH GIỚI THỨ HAI:
Đây là cảnh giới cao hơn tất cảnh giới thứ nhất, ở phía trên, gần ánh sáng, cũng là bên cạnh chúng ta.
Ở đây vẫn còn chập chờn sáng tối, nhưng không tối tăm và không có bọn hình nhân quỉ sứ. Các nhân linh ở đây mang hình vóc giống con người ở trần gian. Họ ở ngay xung quanh chúng ta. Các nhân linh này ở đây vẫn còn đầy dục vọng, tư tưởng nặng nề, cố chấp, khát vọng, tiếc nuối cuộc sống trần gian, còn thù hận, nhưng họ đã có một phần siêu thoát, thấu hiểu được giá trị bản thân, ý thức được cái chết thể xác; thể vía còn nặng, các phân tử còn nặng, tần số rung động chậm chạp, ánh sáng Nguyên năng rọi tới và họ có cuộc đấu tranh lớn trong tư tưởng giữa thiện, ác, lý trí thúc đẩy họ hướng tới điều tốt đẹp hơn. Nhân linh ở đây đôi lúc nhập với trần thế, cơ bản họ còn đạo đức tầm thường, tư tưởng đơn giản, lý trí, tri thức sơ đẳng. Đôi khi họ thích xui khiến con người ở trần gian, thích nhập vào đồng cốt. Còn nhiều tham vọng, nhưng ý thức được sự hư vô của các tham vọng-nhưng họ có lúc vẫn thấy thích được thể hiện, bằng cách giống như cảnh giới Một, tức là nhập vào các “tham vọng ở trần gian”, để hưởng thụ các huyễn ngã như: Vinh quang, quyền lực, lạc thú, nhưng họ không say mê một cách mù quáng như cảnh giới Một.
Cảnh giới này, các nhân linh cũng tìm cách đầu thai trở lại Hạ giới, nhưng chưa được phép. Trừ một số trường hợp đặc biệt, mà trước đó họ chết oan uổng, chưa hết nghiệp cũ, thì Thượng đế cho trở lại nhanh. Phần lớn những người này, khi đầu thai trở lại thì có ý niệm nhớ lại kiếp trước của mình; chỉ là sự sống tiếp của kiếp chưa hết mà thôi, chưa phải trả quả luân hồi.
CẢNH GIỚI THỨ BA:
  Cao hơn cảnh Hai. Tại cảnh này, các linh hồn đã ý thức đượ qui luật sống chết. Phần nhiều hiểu được sự hiện diện của Thượng đế. Họ không còn sợ ánh sáng. Ánh sáng ở đây còn yếu, nhưng đã sáng dịu, xen lẫn những bóng tối nhỏ. Các linh hồn ở đây có sự chiêm nghiệm về lẽ sống, thiện ác. Các vòng này không còn tham vọng nhục dục nhiều; họ hướng tới sự hiểu biết, thông cảm, trân trọng, thiện tính, là bản năng tốt, tuy tính các có lúc vẫn còn, nhưng tuyệt nhiên họ không xui khiến con người làm việc ác. Họ được siêu thoát hơn. Đây là nơi của các bậc trí sỹ bậc thường, những người tốt tính, những vị hay đùa, thích tranh luận, những người có bản lĩnh, có kinh nghiệm sống, các bậc thức giả chân thiện, nhưng còn tham vọng tư tưởng, một số kẻ đạo đức giả nhưng không hại ai, còn cố chấp nhưng không ân oán thù hằn. Họ đã hiểu biết về Thượng đế, tuy nhiên số hiểu được các tư tưởng cao siêu, chính xác Chân Lý không nhiều. Ở đây cũng là chỗ cho đám người vốn như nhược, ngại phấn đấu, dĩ hòa vi quý, không dám làm ác mà cũng chả giám phấn đấu vì thiện. Những người không tham nhưng cũng chả ác, nhưng tính thiện vừa đủ để họ là người tốt, không hại ai. Có cái hay là ở đây không có sự ngu si trì độn, hoặc cực đoan khủng khiếp trong các tính cách. Tất cả đều vừa phải, dù chưa chuẩn mực. Họ cố gắng duy trì và khẳng định bản ngã bằng tư tưởng, lý trí. Phần nhiều chưa có khả năng phù trì. Ở đây cũng là cảnh của những kẻ bảo thủ, những kẻ vốn không nhận thức được, không nhận thức sai về tâm linh, không công nhận Thượng đế, duy vật nhưng tốt tính. Có thể đó là những nhà duy vật bình thường, những kẻ mộ đạo chân chính, nhưng không tu tập. Điều cơ bản ở cảnh này là thiện tính nổi trội, tư tưởng lộn xộn nhưng thiện tính, hòa bình.
CẢNH GIỚI THỨ TƯ:
Ở đây đã tràn đầy ánh sáng dịu dàng, nhưng ánh sáng chưa lấp lánh chan hòa. Các linh hồn đã có bước sóng nhanh hơn, sự rung động tần số nhanh hơn cảnh giới Ba. Họ nhẹ nhõm, thanh thoát hơn. Về tính cách: Họ là những người có trí thức và hiểu biết về lẽ sống, các giá trị cuộc sống. Họ tốt tính, thiện tính, nhưng còn dục vọng, còn huyễn ngà, còn đấu tranh tư tưởng thiện ác ở trong bản thân. Phần nhiều là những người có đóng góp cho nhân loại khi ở trần gian. Nếu ở cảnh giới Một lên đến đây, thì đã phải trải qua sự bứt phá hàng chục, thậm chí hàng trăm năm! Bọn ấy bây giờ đây đã thấu lý lẽ của chân lý cái thiện. Thể vía (bóng tối) tan rã gần hết. Các linh hồn siêu thoát bậc cao. Tại đây, họ đoàn kết thương yêu, hình thành các khối kết hợp tư tưởng phân lập, theo nhóm, có sự liên kết với nhau và học hỏi lẫn nhau để tiến bộ. Họ biết cách tích lũy các giá trị tiến bộ từ nhân loại và tu tập để chuẩn bị được phép đầu thai. Có khi họ cùng xin Thượng đế, cho đầu thai ở một chỗ để thực hiện lý tưởng của mình. Họ là người có bản lĩnh, chính kiến, tham vọng thiện tính. Đây là cảnh giới của những người hiền lương, trung thực, bộc trực, hay giúp đỡ người khác; khi họ sống không tham ác, mà vị tha, cao thượng độ lượng, nhân ái, từ bị, nhưng chưa thấu Chân Lý lớn mà theo Đạo, tu tập, hoặc theo Đạo tu luyện nhân cách nhưng trí tuệ và cách sống bình thường. Đa phần các con chiên, giáo hữu, cac giáo sỹ, các nhà tư tưởng, trí sỹ bậc trung trở về cảnh này. Có thể nói, đây là cảnh của những người tiến hóa bậc cao, nhưng chưa cao đẹp hoàn toàn, còn nhiều nghiệp quả phải trả. Khi đầu thai, họ sẽ vào các kiếp sống tốt đẹp như: No ấm, quan chức lành thiện, các nhà trí sỹ tư tưởng, họat động xã hội, văn nghệ sỹ thiện tính, các nhà từ thiện, hoặc trở lại con đường tu đạo cho thành đạo. Một số sẽ trở về làm các nhà lãnh đạo ưu tú, những bậc khai sáng cho sự nghiệp của Thượng đế, các nhà tư tưởng bậc trung, các trí thức điển hình như giáo sư, dân biểu, nghị sỹ, quan chức cao cấp, cha cố, thượng tọa, tăng ni. Họ là những người thúc đẩy tiến bộ trong tương lai.
CẢNH GIỚI THỨ NĂM:
Ánh sáng chan hòa, đã có lấp lánh thánh thiện. Cảnh này ở giữa trần gian và trung tâm Nguyên năng. Các linh hồn siêu thoát hoàn toàn, nhẹ nhàng; đã có khả năng phù trì ton lớn cho Hạ giới khi cần.
Họ đã tạo ra các hình khối tư tưởng cao đẹp, nhưng còn mang tính cá nhân rõ nét. Họ là các tính cách hoàn thiện về tính thiện. Đó là các bậc trí thức tài năng, những nguyên thủ và các nhà lãnh đạo lớn, có trí tuệ xuất sắc, cao đẹp về lý tưởng đạo đức. Các vị an dân hộ quốc, tướng lĩnh có tài tâm thiện, những vị có công khai sáng cho nhân sinh. Một số thần linh: Thần núi, sông, nguyên thần, các tướng binh của Thượng đế. Đặc biệt ở đây có trẻ con nhiều-tức là các linh hồn rất thánh thiện. Các nhà tu hành bậc cao, nhưng trí tuệ đơn giản chưa xuất sắc.
Nếu tính thời gian, tiến hóa từ cảnh Một lên đến cảnh này phải mất hàng ngàn năm! Tức là: Nếu chờ thăng cảnh thì mất hàng trăm năm, còn luân hồi qua các kiếp thì mất hàng ngàn năm. Thế mới biết, Trời sinh được một người tốt, tài, thật khó biết bao! Ở cảnh này, Thượng đế cho phép họ lựa chọn sự đầu thai. Có khi Thượng đế chỉ định họ đầu thai vào những chỗ cần chấn hưng xã hội loài người. Các thiên binh có khi đánh dẹp hoặc hộ quốc an dân, trừ gian diệt ác, bắt tội kẻ tà đạo, bọn ác nhân. Tuyệt nhiên không còn tham vọng thô mộc cá nhân. Những người “duy vật bình thường”, nhưng có đạo đức cao đẹp, có đóng góp xuất sắc cho loài người, cũng được lên cảnh này. Ở đây, họ thấu triệt ý chí và Chân lý của Thượng đế để đầu thai, thực hiện sứ mệnh mới, theo Chân lý lớn. Tuy nhiên, cần nói: Những người duy vật “đạo đức chân chính” (theo cách hiểu của họ) có đóng góp cho xã hội, nhưng lại có những hành động chống lại Thượng đế, bài xích, phỉ báng Trời-Thiên Chúa-Phật, đập phá, hãm hại các giá trị tâm linh cao đẹp, thì lại bị ở cảnh giới thấp nhất! Tại đây, họ bị sống chung với bọn người lốt quỉ, để trợư nhận thức được sự cao đẹp của ánh sáng. Họ phải tự cởi bỏ mọi định kiến cực đoan độc ác sai lầm. Kiếp sau họ phải trả quả rất nặng nề, cực hình cho cả con cháu vì tội phạm thượng. Ngoài ra, các người khi đang sống, có những hành động cưỡng hại Đạo, phải bị Thượng đế cho chiết giảm tuổi thọ ngay tại kiếp này, bị ghánh hậu quả cuối đời, khi chết tùy mức độ tội lỗi mà bị giáo hóa, cho vào cảnh giới tương ứng.
Ngày nay là thời kỳ phổ giáo mới, Thượng đế sẽ kiên quyết phù thịnh diệt ác để Chân lý của Người được tưới khắp chúng sinh, vì thế giới đang lộn lẫn các giá trị, cần thiết phải có sự nhận thức kiên quyết về Chân lý lớn. Sứ mệnh của chúng ta là giúp Trời hành đạo.
CẢNH GIỚI THỨ SÁU:
Ở đây, ánh sáng chan hòa, ngập tràn các hình khối tư tưởng cao đẹp, thánh thiện. Cảnh này chỉ nhỉnh hơn cảnh Năm một chút. Các vong linh ở đây có sức di chuyển rất nhanh, thanh thoát nhẹ nhàng, không còn thể vía nặng, mà siêu thoát hoàn toàn. Đây có các nhà tư tưởng lớn, những nhà lãnh đạo kiệt xuất, tài năng được nhân dân phong thần thánh. Các vị này, tuy đắc đạo, đắc đức, nhưng nghiệp quả vẫn còn, còn phải luân hồi. Cảnh Sáu, Bảy còn phải luân hồi. Các linh hồn tiến hóa bậc cao. Mọi sự ở đây đều cao đẹp, nhất thiết tư tưởng đã đồng điệu. Ở đây là cảnh của các vị tu thiền, lột bỏ hoàn toàn dục vọng, có trí tuệ, tài năng, các vị chân tu đắc đạo, nhưng chưa hoàn toàn, còn phải trở lại Hạ giới hoàn thiện thêm. Các nhà tư tưởng của các đại đạo, nhưng chưa lột hết các ham muốn thể xác (quyền lực, dục vọng). Khả năng phù trì của họ to lớn, họ có thể theo lệnh Thượng đế để tái sinh, có thể tác động để bảo vệ an dân hộ quốc, làm các thiên binh thiên tướng khi cần. Đây là nơi Thượng đế phong các chức quan của Thiên đình cho các con của Người. Ở đây cũng có nhiều thần linh.
CẢNH GIỚI THỨ BẢY:
Đây là trường học lớn của Trung giới-là cảnh cuối cùng của Trung giới. Ở đây có các vị nhân linh cao quý hoàn thiện các giá trị bản thân để trở lại đầu thai, chấn hưng nhân loại. Đó là các bậc Thượng linh, bậc đại trí, đại tài, những thần đồng xuất thế, những vị thánh tăng hoàn đạo. Còn có những giáo hữu đạt đạo. Có thể có các vị khai đạo, các vị thánh tăng xuất chúng. Nhưng họ còn phải luân hồi, do nghiệp quả còn lưu, họ còn phải thực hiện sứ mệnh của mình ở trần gian, chủ yếu là giáo hóa nhân loại. Các giáo hữu của Pháp môn, tu Thiên Pháp có thể lên đến cấp này, và cấp cao hơn là đến cảnh 9-vào trung cung Vũ trụ.
Cần nói rõ: Quan niệm cũ, cứ tu đạo chết là lên Thiên đường ngay, việc này là không đúng, vì phải có quá trình tiến hóa tuần tự, khoa học, cần thiết và rất rõ ràng của linh hồn-con người nói chung. Mặt khác, thế giới loài người đã và hiện nay có lắm tư tưởng cực đoan trái chiều, phương pháp tu đạo cũng rất khác nhau, còn đầy rẫy nghiệp quả tạo ra, phải trả. Xã hội loài người, trong đó có tư tưởng còn đang ở mức tiến hóa sơ đẳng cấp thấp.
Loài người còn phải tự học, tự hoàn thiện, phải trải qua nhiều năm nữa mới xây dựng được Thiên đường Hạ giới, phải thông linh, trực thông với giới Thiên linh, phải khai mở được các khả năng năng linh để trực tiếp học hỏi Thượng đế vào cuối thời kỳ phổ giáo; phải liên hệ học tập các hành tinh và người ngoài trái đất khác, và phải làm chủ Vũ trụ hiện nay (hiểu biết, tác động, liên hệ, cảm ứng).
Do đó, thời gian của chúng ta là còn vô cùng to lớn, mới có thể lên hết Thượng giới được.
 THIÊN ĐƯỜNG: CẢNH GIỚI THỨ TÁM VÀ THỨ CHÍN:
  Đây là cảnh giới của Thượng đế vĩ đại, của Đức Mẫu Vương vĩ đại, của các chư Thánh, Tiên, Phật, các nhân linh đã hết luân hồi, các thiên binh, thiên tướng, các vị la hán, bồ tát, các vị thánh của các đạo đã hết tu luyện, thành đạo, hết nghiệp quả. Các vị thánh của Thượng đế, sau khi cho đầu thai hoàn thành nhiệm vụ đã trở về. Ở đây, đa phần các linh hồn đã hết luân hồi, tiến hóa hoàn toàn.
Đặc biệt: Có thể các sứ giả của Thượng đế, các vị khai đạo, chân tu đắc đạo thượng thừa, các vị thánh khai mở các giáo lý, hoàn thiện nhân cách, có công lao đặc biệt xuất sắc, cũng có thể được Thượng đế mà đức Mẫu đại từ bi xét thưởng, cho lên Thiên đường khai tâm tiếp phúc.

Các linh hồn có tư tưởng cao siêu, được thưởng ân huệ vô biên của Thượng đế. 
Ở đây là nơi ngự của Đấng Đại Phụ vĩ đại. Cha ngự ở tòa Bạch Ngọc Thiên Đài, Người đã tạo ra ở đây một Thiên đường vĩ đại, những tòa điện ngọc, những vườn hoa thiên trái đep tươi, những hình khối-hình thể-vật cảnh tuyệt diệu, đẹp đẽ khôn cùng. Tất nhiên: Các linh hồn ở đây lại hoàn toàn không còn tham vọng vật dục, nhưng lại được hưởng sung sướng vô cùng; đó là cái giá vĩ đại của mơ ước mà sự phấn đấu của con người. Đây là nơi cực lạc của Phật Tiên.
Từ cảnh Tám, các linh hồn mới được phép nhìn thấy Thượng đế. Tức là được quần tụ bên Người.
Ở đây, có chia ra các tòa, các cõi Trời, để các chư linh trụ trì. Các quan, các chức vị do Cha phân bổ để quản lý Trung-Hạ giới và các thế giới.
Ở đây, phép luật của Thượng đế được thực hiện và ban xuống khắp các thế gian, đến tất cả các cõi, các thế giới, các cảnh giới, các số phận kiếp nghiệp.
Vì đây là trung tâm Nguyên năng của Vũ trụ, nên cách xa trái đất. Tuy nhiên, các vị này lại linh diệu vô cùng, đi về các thế giới rất đơn giản, do khả năng siêu phàm biến hóa của sóng bậc cao (linh hồn thể nhẹ) có sức mạnh vô cùng. Một số thần thánh có các phép giáo hóa, biến hóa lớn, có thể tập trung năng lượng của tự nhiên-nguồn năng lượng Nguyên năng dồi dào ở gần để thực hiện các ý chí của mình. Ví dụ: Tác động xuống trần thế mạnh mẽ.
Ta hãy hình dung thế này: Một nhà ngoại cảm được khai mở linh năng; một nhà luyện Yoga ưu việt, có thể dùng ý chí bẻ cong được đồ vật, làm cháy đồ vật, hoặc chữa bệnh từ xa; tất cả những việc đó không tự nhiên mà có, mà do họ đã biết cách sử dụng Nguyên năng của Thượng đế (tự nhiên) thông qua sự điều khiển của linh hồn họ. Vậy một vị thấn thánh cao cấp, sẽ có sức mạnh gấp họ hàng triệu lần: Tạo ra các nguyên cớ để làm thay đổi được tự nhiên và số phận con người, các loài. Đặc biệt Đức Vương Mẫu được Cha giao cho quản lý việc đầu thai và luân chuyển luân hồi kiếp nghiệp, tạo ra sự chính xác và phù trì vô biên cho các kiếp số con người. Cho nên gọi Đức Vương Mẫu-Phật Mẫu là mẹ chung tạo ra chúng ta có từ ý nghĩa ấy.
Đây là quê hương của chúng ta. Chúng ta từ đây đi về Hạ giới, và từ Hạ giới về đây, theo luật tái sinh, luân hồi.
Các linh hồn về đây tụ hội trong ánh sáng vô biên, dịu hiền, thánh thiện của Thượng đế và Đức Mẹ vĩ đại; được trân trọng yêu thương. Chúng ta không mất đi mà chúng ta bất tử, dù bất luận hoàn cảnh nào. Đó là thế giới an vui an lành, được hưởng các lạc thú thánh thiện. Đó cũng là các hình ảnh của Thiên đường Hạ giứi-cái mà chúng ta nguyện phấn đấu và hoàn mỹ sau này.



Share:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu trữ Blog

Translate