‘Cách mạng Công nghiệp 4.0’ – một Cụm từ Phù phiếm?

 Khi chúng tôi dùng cụm từ “cách mạng công nghiệp 4.0” thì các công ty Mỹ, Anh, Pháp, Ý không hiểu ý chúng tôi muốn nói gì. Họ không quá bận tâm đến “cách mạng 4.0”. Công nghệ thông tin liên tục thay đổi trong 20 năm qua và nó cứ thay đổi tới đâu thì họ ứng dụng tới đó tại doanh nghiệp của mình.

‘Cách mạng công nghiệp 4.0’ – một cụm từ phù phiếm?

Tôi mới gặp một công ty có sản phẩm đặc biệt ở thành phố Bologna, Italia. Họ làm ra một phần mềm ứng dụng trong thiết kế, sản xuất vật liệu xây dựng trên nền tảng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn. Người dùng có thể khai thác cơ sở dữ liệu gạch lát của các hãng trên toàn cầu, áp dụng cho các thiết kế mình tự sáng tạo. Ứng dụng này lần đầu tiên giúp một người bình thường có thể làm được công việc của nhà thiết kế chuyên nghiệp.

Tôi rất ngưỡng mộ và hỏi sâu về việc xây dựng ứng dụng tuyệt vời này. Họ nói nó được xây dựng và nâng cấp trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Tôi hào hứng nhắc đến khái niệm cách mạng 4.0, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây hay số hóa thì ngạc nhiên thay, họ bảo chẳng biết đến những trào lưu này. Họ chỉ đơn giản đã và vẫn làm như bao năm qua.

Nhờ xuất khẩu hàng đi nhiều nước, tôi thường xuyên tiếp xúc với doanh nhân khắp nơi. Điều khiến tôi ngạc nhiên là khi chúng tôi dùng cụm từ “cách mạng công nghiệp 4.0” thì các công ty Mỹ, Anh, Pháp, Ý không hiểu ý chúng tôi muốn nói gì. Khi tôi giải thích về “cơ hội và thách thức” thì đối tác trả lời, họ không quá bận tâm đến “cách mạng 4.0”. Công nghệ thông tin liên tục thay đổi trong 20 năm qua và nó cứ thay đổi tới đâu thì họ ứng dụng tới đó tại doanh nghiệp của mình.

Hầu như ngày nào tôi cũng được, phải nghe cụm từ “bốn chấm không” ở Việt Nam. Hơn một năm qua, từ chính phủ tới các bộ ngành địa phương, doanh nghiệp, đâu đâu người ta cũng nhắc đến cách mạng công nghiệp 4.0. Trước một chuyến bay, tôi đọc trên điện thoại tin tức về một cuộc thi hoa hậu có câu hỏi ứng xử về cách mạng 4.0. Máy bay vừa hạ cánh, giở điện thoại, lại thấy email từ Quận ủy Bình Thạnh. Họ mời doanh nghiệp dự hội thảo của quận ủy tổ chức với chủ đề: “Cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và Thách thức”.

Mọi giới trong xã hội đã vào cuộc rầm rộ để đón nhận cách mạng công nghiệp 4.0 và cho rằng nó đã và đang diễn ra sâu rộng trên toàn cầu. Nhưng theo tôi, cần hơn là những hành động thực sự.

Hành động đơn giản là tạo ra môi trường tốt và sự hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp cùng cộng đồng khởi nghiệp để họ sống được thay vì phải bỏ cuộc. Rất nhiều dự án khởi nghiệp của người Việt đã chọn Singapore thay vì quê hương mình. Singapore đã tạo ra môi trường thân thiện đặc biệt với người kinh doanh từ các chính sách thiết thực về thuế, thủ tục. Ngân hàng Trung ương MAS đã cấp hàng trăm triệu USD để phát triển các dự án hỗ trợ ngành công nghệ và công nghệ tài chính. Không riêng Singapore, các nước Đông Nam Á quanh Việt Nam đều đã có những chương trình hành động rất cụ thể nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng công nghệ. Trong khi đó, tại Việt Nam, rất khó có thể thấy được các chương trình hỗ trợ cụ thể của chính phủ.

Ở một khía cạnh khác, việc tuyên truyền thái quá về “cách mạng 4.0” khiến đã có những người coi nó như một sức mạnh thần kỳ. Trong một hội thảo của Microsoft tổ chức mới đây, tôi thấy đại diện một doanh nghiệp lên diễn đàn hùng hồn khẳng định rằng họ sẽ ứng dụng số hóa trong công ty với khẩu hiệu “Thay đổi hay là chết”. Cũng vận hành doanh nghiệp, tôi cho rằng số hóa trong hoạt động là tốt, nhưng không phải cứ số hoá ắt sẽ thành công. Sứ mệnh đầu tiên của doanh nghiệp là vật lộn với sự cạnh tranh khắc nghiệt trên thị trường, có lợi nhuận để duy trì hoạt động và đảm bảo đời sống nhân viên; muốn số hóa thì phải dựa trên nền tảng hoạt động bài bản, chuyên nghiệp, đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn cao, phải có sẵn sản phẩm tốt, cạnh tranh trên thị trường.

Hãy thử hỏi trong hàng trăm nghìn doanh nghiệp Việt đang vật lộn để tồn tại, có bao nhiêu người sẽ số hóa thành rồng. Việc hô hào thái quá và khẳng định vội vàng về “cuộc cách mạng” sẽ tạo ra những mặt trái, gây ra sự hoang mang bất ổn trong giới doanh nghiệp. Sẽ xuất hiện những doanh nghiệp nhỏ, có ngân sách hạn hẹp nhưng trước những lời đe dọa “thay đổi hay là chết” sẽ phải bỏ ra chi phí lớn cho việc chạy đua hệ thống, các ứng dụng số hóa chưa phù hợp.

Chúng ta không thể nghiêm trọng hóa quá đà một cuộc cách mạng nào đó. Bởi cuộc sống của con người không bao giờ đứng yên, nhưng nó không đảo lộn ngay lập tức một cách dễ dàng. Chỉ vài năm trước đây thôi, việc sử dụng điện thoại di động còn xa xỉ đối với người Việt thì nay, người bán rong cũng dùng điện thoại thông minh cho công việc. Họ chẳng hề tuyên bố có một cuộc cách mạng nào với bao nhiêu chấm trong thay đổi ấy.

Gần đây, người ta còn tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo về chính phủ điện tử, thành phố thông minh, đô thị hiện đại. Tôi không biết cuộc cách mạng có diễn ra nhưng tôi chắc chắn những chiếc xe ô tô không người lái Tesla không thể vận hành trên những con đường luôn tắc nghẽn hay ngập nước của TP HCM. Sẽ vẫn có những kỹ sư điện toán e ngại đến Việt Nam làm việc chỉ vì an toàn thực phẩm. Không có cuộc cách mạng “mấy chấm” nào trong giáo dục để sáng mai trẻ em miền núi, vùng xa không còn phải bơi qua sông hay bị bắt nghỉ học, ngay lập tức giúp mỗi bệnh nhân ở Bệnh viện ung bướu TP HCM được nằm một giường riêng thay vì ghép với hai người khác.

Cải thiện chất lượng sống đồng đều cho mọi người dân mỗi ngày mới là mục tiêu cốt lõi của các nhà quản lý. Gọi tên đúng mục tiêu phát triển, thì việc khoác lên nó một cái áo “mấy chấm” chỉ còn là chuyện phụ.

(st)

Share:

Cạnh tranh Kinh tế và Tiến trình Lịch sử Loài Người

 10,000 năm lịch sử loài người dạy cho các quốc gia bài học gì về làm giàu?

Về tác giả: Jared Diamond là giáo sư Địa lý học tại Đại học Los Angeles, Mỹ. Ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá, tiêu biểu có Huy chương Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Cuốn Súng, vi trùng và thép (Guns, Germs and Steel) của ông xuất bản năm 1997, đoạt giải Pulitzer và thuộc hàng “best seller”, cùng cuốn Sụp đổ (Collapse)ra cuối năm 2004 đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà tư tưởng hiện đại có nhiều ảnh hưởng nhất ở Mỹ.

Bài viết này được trích trong một bài thuyết giảng của ông tại một bảo tàng, trong đó ông chia sẻ rằng: “phần lớn những bài thuyết giảng mà chúng ta nghe ở bảo tàng toàn đề cập đến những chủ đề có vẻ hay ho nhưng chẳng có giá trị thực dụng: ví dụ như là, chúng sẽ không bao giờ giúp bạn trở nên giàu có được. Hôm nay tôi muốn giúp cân bằng lại điều đó và chia sẻ với các bạn về lịch sử quá trình trở nên giàu có của chúng ta.”

Trong bài viết này, tác giả sử dụng ngôi thứ nhất.

.

Trong cuốn Súng, vi trùng và thép, tôi từng đặt ra câu hỏi tại sao lịch sử diễn ra theo các chiều hướng khác nhau trong suốt 13000 năm qua trên lục địa Á – Âu, châu Mỹ, vùng châu Phi hạ Sahara và cả vùng thổ dân châu Úc? Kết quả là như các bạn thấy, trong 500 năm cuối về đây, chính người Châu Âu là người đi chinh phục những người Mỹ bản xứ, những người thổ dân châu Úc châu Phi hạ Sahara chứ không phải ngược lại.

Phần lớn cuốn sách tôi quan tâm đến việc so sánh dân cư ở các lục địa khác nhau, nhưng tôi biết mình không thể cho xuất bản một cuốn sách mà không so sánh lịch sử của các lục địa ấy và coi lục địa Á – Âu là một khối mà không đề cập gì đến những vấn đề hấp dẫn ẩn sâu trong nó. Vì sao chính là người Châu Âu, chứ không phải người Trung Quốc, Ấn Độ hay Trung Đông, mới là người chinh phục thế giới và xâm chiếm thuộc địa khác? Tôi dành bảy trang cuối của cuốn Súng, vi trùng và thép để bàn về vấn đề này. Tôi cho rằng mình đã tìm ra lời đáp đúng. Nhưng sau khi cuốn sách được xuất bản, tôi nhận về rất nhiều phản hồi, mà trong đó thú vị nhất là những phản hồi liên quan đến việc phân tích, so sánh lịch sử của các vùng kể trên.

Đặc biệt, bên cạnh những lời đánh giá mà Bill Gates dành cho cuốn sách của tôi, tôi có tới hàng trăm bức thư trao đổi từ các nhà kinh tế học và thương nhân. Họ cho rằng khả năng cao tồn tại sự song song giữa lịch sử xã hội loài người và lịch sử các nhóm dân tộc. Phản hồi này có liên quan đến một câu hỏi lớn: có cách tổ chức nào trong các tổ nhóm và doanh nghiệp giúp tối đa hóa năng suất, kích thích sáng tạo và vươn tới sự giàu có không? Một nhóm người nên có sự tập trung hóa hay nên có sự xáo trộn hay thậm chí là vô tổ chức? Cần duy trì một nhóm duy nhất hay chia thành nhiều nhóm nhỏ? Nên duy trì giao tiếp cởi mở giữa các nhóm hay tạo ra bức tường giữa các thành viên để làm việc bí mật? Và có nên dựng những biểu thuế bảo hộ đối với bên ngoài, hay là tạo điều kiện cho doanh nghiệp và chính phủ cạnh tranh tự do?

Câu hỏi về tổ chức nhóm phát sinh ở nhiều cấp độ, trong các loại hình nhóm khác nhau, bao gồm cả việc tổ chức một chính phủ hay một quốc gia. Vậy cách tốt nhất để quản lý một quốc gia là gì? Các lập luận cổ điển cho rằng, chế độ độc tài ôn hòa, hệ thống liên bang hoặc tự do không chính phủ là những cách tối ưu nhất. Tương tự với một công ty, đố bạn biết vì sao Microsoft ngày càng thành công, vì sao IBM sau công cuộc tái cơ cấu do doanh thu “bết bát” đã thành công hơn cả thời kỳ hưng thịnh nhất trước đó?

Khi tôi còn là một cậu bé lớn lên ở Boston, Route 128 là tuyến đường vành đai công nghiệp của thành phố. Nhưng giờ Route 128 ít được nhớ tới bởi sự bùng nổ của Thung lũng Silicon. Mối quan hệ tương tác của các doanh nghiệp ở hai nơi này cũng khác nhau và có thể dẫn tới những kết quả rất khác.

Luôn tồn tại những khác biệt rõ rệt về hiệu quả giữa các nền kinh tế, khi so sánh năng suất lao động bình quân của Nhật Bản và Hoa Kỳ, của Pháp và Đức. Theo đó, năng suất và sự phát triển của các ngành nghề trong cùng một quốc gia cũng không giống nhau. Ví dụ, ngành sản xuất kim loại của Đức có thể sánh ngang với Hoa Kỳ, chứng tỏ các ngành công nghiệp của Đức rất mạnh, tuy nhiên, ngành sản xuất bia của Đức chỉ đạt sản lượng bằng một nửa Hoa Kỳ. Chúng ta nghĩ rằng thế giới đang hoang tưởng về nền công nghiệp thần kì của Nhật Bản, nhưng đúng là vậy, ngành sản xuất thép ở Nhật hiệu quả hơn ở Mỹ tới 45%. Những cũng đừng ngạc nhiên vì ngành sản xuất thức ăn của Nhật lại chỉ hiệu quả bằng 1/3 của Mỹ. Thêm một ví dụ nữa, ngành sản xuất thép của Hàn Quốc đạt hiệu suất ngang Hoa Kỳ nhưng so mặt bằng chung tất cả các ngành công nghiệp thì lại thua kém và tụt hậu đáng kể. Vậy có phải sự khác biệt trong cơ cấu tổ chức sản xuất bia và thép của Đức, khác biệt trong cơ cấu tổ chức sản xuất thép và thức ăn của Nhật đã tạo ra sản lượng ngành khác nhau?

Rõ ràng, thành công của một tổ chức phần nào đó phụ thuộc vào đặc tính của các cá nhân tham gia. Thành công của Microsoft một phần là nhờ có Bill Gates. Nếu là một kẻ khờ sáng lập ra Microsoft, dù có một cơ cấu tổ chức hoàn hảo đến đâu, chắc gì “gã khổng lồ” đã bành trướng như hôm nay? Lại có câu hỏi, nếu mọi thứ đã đạt mức cân bằng, thì trong dài hạn hoặc một khoảng thời gian nhất định, hình thái tổ chức nào là hiệu quả nhất? Tôi cam đoan rằng nhiều người trong số các bạn – những người đang có trong tay một ý tưởng kinh doanh nào đó, đều tò mò muốn biết câu trả lời.

Tôi đã thử nhìn nhận từ góc độ lịch sử loài người. Lịch sử hơn 13.000 năm của chúng ta có tới hàng chục ngàn phép thử khác nhau. Mỗi xã hội loài người đặc trưng cho một phép thử về cách thức tổ chức. Một số hình thái xã hội khá sáng tạo và đạt được kết quả tốt hơn những hình thái khác. Vậy điều ta học hỏi từ lịch sử nhân loại có giúp ta trở nên giàu có hơn không? Hãy cùng tôi khám phá hai thí nghiệm tự nhiên sau.

Thí nghiệm tự nhiên đầu tiên tìm hiểu về ảnh hưởng của sự cô lập, kích cỡ nhóm và sự tương tác giữa các nhóm tới năng suất của xã hội loài người. Trước tiên hãy nói đến sự cô lập. Nếu sự cô lập có ảnh hưởng tới loài người, hai hòn đảo Tasmania và Flinders ngoài khơi Đông Nam Australia chính là minh chứng rõ nhất. Ngày nay chúng nằm khoảng 200 dặm ngoài khơi, tách biệt khỏi nước Úc bởi eo biển Bass. 10.000 năm về trước, các eo biển tương đối nông, nên khi mặt nước đóng băng, nhà cửa nằm ngay trên mặt nước biển. Sau đó các dòng sông băng tan chảy, nước biển dâng cắt Tasmania ra khỏi lục địa. Vì vậy, Tasmania và Flinders vẫn là một phần của Úc.

Băng tan và nước biển dâng khiến dân Tasmania không thể tìm ra đất liền vì thuyền bè của họ chỉ đi được vài chục giờ là chìm. Các tàu thuyền từ đất liền của thổ dân Úc cũng không thể cập tới Tasmania.

Do đó, quần đảo này chính là mô hình nghiên cứu sự cô lập chưa từng có trong lịch sử nhân loại. 4000 dân trên đảo không có bất kỳ sợi dây liên kết nào với đất liền cho tới tận năm 1642, khi những người Châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần đảo. Vậy điều gì đã chia cắt cộng đồng 4000 người của Tasmania và cộng đồng 200 người trên quần đảo Flinders với thế giới bên ngoài trong suốt 10.000 năm?

Người Châu Âu tìm ra Tasmania vào thế kỉ 17, đó là thời điểm sơ khai, “tiền sử” của khoa học công nghệ trong xã hội hiện đại. Nhưng ở quần đảo lúc bấy giờ còn chẳng có một ngọn lửa đèn dầu, không có công cụ bằng xương, bằng đá, không có lấy một vũ khí phòng vệ, và họ thậm chí không phân biệt nổi cá với các loài động vật khác. Như vậy có thể lý giải rằng, chính các công cụ tiên tiến mà thổ dân Úc sống ở đất liền phát minh ra đã làm cô lập 4000 người ở Tasmania – những người chẳng có nổi một phát minh nào. Nhưng các nhà khảo cổ đã tìm ra một điều nữa: trong 10.000 năm bị cô lập, người Tasmania đã mất đi những công cụ sáng chế quan trọng nhất, chứ không phải họ không thể sáng chế. Xương tối cổ được tìm thấy sâu trong lòng đất Tasmania, nếu cư dân đảo đào được chúng, họ sẽ tạo ra nhiều thay đổi. Bởi từ công cụ bằng xương, bạn có thể tạo ra kim chỉ, với kim chỉ, bạn sẽ tìm ra cách làm áo ấm. Tasmania thuộc vĩ độ nằm giữa Vladivostok và Chicago, mùa đông tuyết rơi rất lạnh nhưng thổ dân ở đây vẫn khỏa thân.

Chúng ta giải thích thế nào cho những mất mát với nền văn hóa của Tasmania khi người dân không thể phát minh ra công cụ? Thiệt hại với Flinders còn tồi tệ hơn bởi 200 dân cư đảo đã tuyệt chủng hàng thiên niên kỉ trước. Rõ ràng là ở các xã hội nhỏ bị cô lập ấy có gì đó khiến cho những phát minh đang có bị thất truyền, hay việc cải tiến diễn ra chậm chạp. Điều đó không chỉ xảy ra ở mỗi Tasmania, Flinders mà còn ở nhiều xã hội cô lập khác. Quần đảo eo biển Torres nằm giữa Australia và New Guinea để thất truyền chiếc xuồng; dân vùng Polynesian mất đicung, mũi tên và đồ gốm; người Eskimo ở Bắc Cực mất đi chiếc thuyền kayak và chó, cònngười Nhật Bản làm mất đi súng.

Để hiểu hơn về những sự mất mát trong các xã hội cực kỳ cô lập này, dễ dàng nhất là xem xét trường hợp của Nhật Bản, xem một xã hội văn minh đã chứng kiến và mô tả sự thất truyền của vũ khí như thế nào. Súng đến Nhật lần đầu tiên vào năm 1543, khi hai nhà thám hiểm Bồ Đào Nha cập bến cảng và rút súng bắn con vịt đang chạy trên bờ biển. Hai nhà quý tộc Nhật Bản chứng kiến đã không khỏi ngạc nhiên và ấn tượng, họ quyết định mua lại khẩu súng với giá 10.000 USD và còn dùng kiếm để mô phỏng lại hành động bắn súng. Một thập niên sau đó, Nhật Bản là đất nước tàng trữ nhiều súng hơn bất cứ quốc gia nào, năm 1600, Nhật sở hữu khẩu súng tốt nhất thế giới. Tuy nhiên, những thế kỉ tiếp theo, người Nhật chẳng còn nhớ súng là gì nữa.

Trong quân đội Nhật lúc bấy giờ có một lực lượng được gọi là chiến binh Samurai. Samurai đứng ở hàng ngũ đầu, hô vang khẩu hiệu và tự đáp lại khẩu hiệu đó để nâng cao tinh thần quân sĩ. Các Samurai nhận ra rằng, súng sẽ giết chết họ đầu tiên. Họ đề nghị hạn chế cấp phép cho các nhà máy chế tạo súng. Sau đó, chỉ còn ba nhà máy được cấp phép sửa chữa súng. Ba nhà máy này sản xuất 100 khẩu một năm rồi giảm xuống mười khẩu một năm, rồi ba khẩu một năm. Đến năm 1840, thuyền trưởng kì cựu Commodore Perry của quân đội Mỹ đến thăm Nhật và chẳng thấy bóng dáng của khẩu súng nào nữa. Không thể phủ nhận Nhật Bản đã mất đi một công nghệ rất mạnh.

Khi súng ống đến Châu Âu, một vài hoàng tử cũng ra lệnh cấm, có người cấm cả việc in ấn. Nhưng khi nhìn thấy hoàng tử nước kế bên tới thăm và cầm súng, họ biết mình đã sai. Các nước này nhanh chóng cho du nhập súng trở lại và còn tìm cách chiếm đoạt vũ khí của láng giềng. Mất mát ở Nhật Bản là bởi quần đảo này bị cô lập, không có người hàng xóm nào đe dọa và cũng không biết nên chiếm đoạt vũ khí từ ai.

Câu chuyện về các xã hội cô lập minh họa hai nguyên tắc chung trong mối liên hệ giữa đặc tính của nhóm người với các phát minh và sự đổi mới. Thứ nhất, trong bất kỳ xã hội nào (trừ những xã hội hoàn toàn cô lập), các sáng kiến hầu hết được du nhập từ bên ngoài, chứ không tự hình thành trong xã hội đóThứ hai, bất kỳ xã hội nào cũng chịu ảnh hưởng bởi trào lưu và ý thích của người dân. Nói “trào lưu” là nói đến những thói quen không tạo ra giá trị kinh tế. Các xã hội hoặc là du nhập những hoạt động không tạo ra giá trị kinh tế, hoặc chối bỏ những hoạt động tạo ra giá trị kinh tế. Nhưng thường thì các xu hướng này bị đảo ngược lại, vì họ cảm thấy bị xã hội bên cạnh vượt lên hay cảm thấy việc chối bỏ các hoạt động cũ là một sai lầm lớn, như trong ví dụ về các hoàng tử châu Âu cấm dùng súng rồi lại du nhập lại, như trong ví dụ trên. Tóm lại, cạnh tranh giữa các xã hội là cái thúc đẩy việc phát minh ra công nghệ mới và tiếp tục những công nghệ hiện có. Chỉ ở xã hội bị cô lập – nơi không tồn tại cạnh tranh, thì trào lưu công nghệ có giá trị mới có thể mất đi vĩnh viễn.

Một bài học nữa tôi rút ra từ lịch sử là nguyên tắc phân chia tối ưu. Câu hỏi cụ thể là, nhóm nhân viên bảo tàng, doanh nghiệp, ngành sản xuất bia Đức, hay Route 128 nên hoạt động dựa trên mô hình tổ chức lớn hay phân ra thành nhiều nhóm nhỏ? Cách tổ chức nhóm hiệu quả nhất là gì?

Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử của Trung Quốc và Châu Âu để so sánh. Tại sao công nghệ ở thời kì Phục hưng của Trung Hoa xếp sau Châu Âu? Nhiều người cho rằng đó là kết quả của tôn giáo, trong khi Nho giáo ở Trung Quốc khá bảo thủ thì Công giáo ở Châu Âu luôn kích thích các sáng tạo khoa học. Vậy cần hỏi thêm Galileo về ảnh hưởng của hệ tư tưởng Do thái và Thiên chúa giáo tới các phát kiến phục hưng sau đó mới xem xét đến Trung Hoa. Thời kỳ đầu phục hưng, người Trung Quốc dẫn đầu thế giới với hàng loạt phát minh ra la bàn, gang, khóa cửa, bột súng, giấy, máy in, bánh lái…

Nhưng cuối cùng, Trung Hoa để mất vị trí dẫn đầu vào tay người Châu Âu. Về tàu biển, tính đến năm 1400, Trung Quốc có số lượng đông nhất, tốt nhất và đi xa được nhất. Tàu Trung Quốc có thể đi qua rất nhiều vùng biển rộng lớn trên thế giới. Giữa năm 1405 và 1432, Trung Quốc cử 7 hạm đội gồm hàng trăm tàu ra khỏi lãnh thổ đi tìm kho báu. Số thuyền viên lên tới 20.000 người. Hạm đội khổng lồ đi từ Trung Quốc tới Indonesia, Ấn Độ, Ả Rập và bờ biển phía Đông châu Phi. Họ dường như đã đi qua Mũi Hảo Vọng, đến bờ Tây châu Phi và xâm chiếm châu Âu lục địa.

Ngành tàu đồ sộ của Trung Quốc đi đến hồi kết khi đất nước này trải qua giai đoạn cô lập, như ai cũng có thể thấy trong lịch sử của rất nhiều quốc gia. Năm 1432, Trung Quốc có Hoàng đế mới. Hoàng đế ủng hộ phe chống hải quân và cho rằng chi tiêu tiền bạc vào hạm đội là cực kì lãng phí. Ông ra lệnh tháo dỡ tất cả các nhà máy đóng tàu, ngưng sản xuất tàu trên toàn đất nước. Truyền thống đóng tàu và đi biển của người Hoa từ đó mất đi chỉ vì quyết định của một người. Do vậy, Trung Quốc ngậm ngùi xếp sau Mỹ và Anh, dù người Mỹ tới năm 1930 mới vượt qua đại khủng hoảng, người Anh năm 1920 mới phát minh ra đèn điện. Trung Quốc lúc này có khác gì một hòn đảo khổng lồ, bị cô lập như Tasmania chứ?

Những gì xảy ra với đội tàu viễn dương của Châu Âu trái ngược với Trung Quốc. Columbus là người Ý và ông muốn lái tàu vượt Đại Tây Dương, nhưng người Ý cho đó là một ý tưởng ngu ngốc và không ủng hộ. Ông đến Pháp sau đó là Bồ Đào Nha để tìm sự giúp đỡ nhưng người Pháp và Bồ Đào Nha cũng chế nhạo ông. Columbus đi tới rìa Tây Ban Nha để viếng thăm một vị bá tước, người này cũng từ chối. Sau đó ông bày tỏ mong muốn với nhà vua và hoàng hậu Tây Ban Nha, họ cũng cho rằng đây là ý tưởng tốn tiền bạc, tốn thời gian.

Cuối cùng, vào lần thỉnh cầu thứ bảy, nhà vua và hoàng hậu đồng ý cho ông ba chiếc thuyền nhỏ. Và hẳn chúng ta ai cũng biết ông đã vượt Đại Tây Dương, khám phá Thế giới mới rồi trở lại Châu Âu như thế nào. Những người đi theo Columbus đều trở nên giàu có và quyền quý. Trong một thời gian ngắn sau đó, 11 quốc gia Châu Âu đồng loạt nhảy vào cuộc chiến giành thuộc địa. Bản chất của những sự kiện này là do châu Âu được chia thành nhiều mảnh, nhiều quốc gia nên Columbus có nhiều cơ hội.

Điều tương tự xảy ra với đồng hồ ở Trung Quốc: quyết định của một hHoàng đế khác đã cho đình chỉ toàn bộ ngành sản xuất đồng hồ trên toàn Trung Quốc lúc bấy giờ. Trung Quốc đang chuẩn bị sáng chế động cơ chạy bằng hơi nước đầu tiên trước cả cuộc Cách mạng công nghiệp Anh, nhưng chỉ một mệnh lệnh “Dừng lại”, chuyện động cơ hơi nước bị dẹp hoàn toàn. Ngược lại, ở châu Âu cũng có những hoàng tử nói không với đèn điện, với in ấn, với súng ống. Nhưng Châu Âu thời kỳ Phục hưng được chia ra làm 2000 công quốc nhỏ, một mệnh lệnh của một thằng ngốc không thể làm mất đi cả nền công nghệ. Các nhà sáng chế có nhiều cơ hội và luôn tồn tại sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Khi một quốc gia trân trọng một giá trị nào đó, nước láng giềng cũng nhìn thấy tiềm năng và muốn chiếm đoạt nó. Vậy câu hỏi lúc này chuyển thành: tại sao Trung Quốc bao đời tìm đến sự thống nhất, trong khi các nước Châu Âu luôn cố gắng tách nhau ra?

Câu trả lời nằm ở vị trí địa lý. Hãy nhìn vào bản đồ của Trung Quốc và Châu Âu. Trung Quốc có bờ biển dài, bằng phẳng trong khi bờ biển của Châu Âu gồ ghề, mỗi chỗ thụt vào là một bán đảo. Sau này các bán đảo trở thành quốc gia độc lập, như bán đảo Hy Lạp, bán đảo Ibera, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển… Châu Âu có hai hòn đảo lớn đã giành được độc lập là Anh và Ai-len trong khi Trung Quốc không có hòn đảo nào đủ lớn để hình thành một quốc gia cho đến khi xuất hiện hòn đảo ngày nay là Đài Loan. Châu Âu bị cắt bởi các dãy núi, dãy Alps, Pyrenees, Carpathians chia châu lục thành nhiều công quốc. Trung Quốc không có có dãy núi nào cắt ngang cả.

Châu Âu có những con sông lớn chảy xuyên qua như sông Rhine, Rhone, sông Danube, Elbe nhưng Trung Quốc chỉ có hai con sông lớn chảy song song, được ngăn cách bởi vùng đất trũng nên sau đó nhanh chóng được nối thành kênh rạch.

Vì lý do địa lý, Trung Quốc đã thống nhất vào năm 221 trước công nguyên và hầu như duy trì sự được thống nhất đó. Trong khi Châu Âu chưa bao giờ thống nhất. Augustus không thể làm điều đó, Charlemagne không thể làm điều đó, cả Napoleon và Hitler cũng không thống nhất nổi Châu Âu. Cho đến nay, Liên minh Châu Âu vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc thống nhất nội bộ.

Vì vậy, bài học ở đây là cuộc cạnh tranh giữa các nhóm người, các quốc gia đã giúp Châu Âu phát triển trong khi quyền năng vô hình của kẻ làm vua đã ngăn chặn sự đổi mới ở Trung Quốc. Kinh nghiệm đổi mới mà Trung Quốc có được là do khoảng thời gian đấu tranh để đi tới thống nhất hoặc nhờ vào kẻ xâm lược bên ngoài.

Điều đó cũng đúng ở hiện tại. Cách đây 20 năm, một vài tên ngốc trong bộ máy lãnh đạo của quốc gia đông dân nhất thế giới này đã đưa ra những ý tưởng dập tắt hệ thống giáo dục vào thời điểm cuộc cách mạng văn hóa, giáo dục, công nghệ đang bùng nổ nhất. Những kẻ ngốc này không thể tồn tại ở Châu Âu. Vậy ví dụ của châu Âu có chứng minh được việc phân thành thật nhiều mảng sẽ tốt hơn? Có lẽ không. Vì Ấn Độ là quốc gia bị phân mảnh nhiều hơn cả Châu Âu, nhưng đất nước Ấn Độ trước đây thua xa châu Âu cả nghìn bước.

Vậy không phân mảnh và phân quá nhiều mảnh đều gây ra bất lợi. Xã hội muốn nhanh đổi mới và tiến lên văn minh cần được phân thành những mảnh hợp lý.

Vậy hãy thử áp dụng tất cả những điều trên vào quá trình làm giàu của mỗi người chúng ta. Tôi sẽ cho bạn ví dụ về những ngành công nghiệp hiện đại, giàu có hiện nay. Đầu tiên là Mỹ và Nhật Bản. Tôi tưởng rằng hiệu suất ngành công nghiệp của Nhật và Đức cao hơn Mỹ nhưng không phải. Khi chia trung bình, hiệu suất của Mỹ lại cao hơn. Con số trung bình này che giấu sự khác biệt, cao thấp giữa các ngành trong một quốc gia và sự khác biệt trong cách thức tổ chức.

Ngành công nghiệp bia của Đức chỉ đạt được hiệu suất bằng 43% Hoa Kỳ trong khi ngành sản xuất thép và kim loại lại đạt sản lượng tương đương. Bia Đức ngon nổi tiếng, mỗi lần tôi và vợ đến Đức đều cố tình mang theo một vali trống để chứa thêm. Vậy tại sao người Đức không thể thành công trong sản xuất bia như sản xuất thép và kim loại, có phải họ không tìm ra cách thức tổ chức hoàn hảo cho ngành sản xuất bia?

Quy mô sản xuất bia ở Đức khá nhỏ, có khoảng 1000 công ty bia địa phương. Các công ty không phải cạnh tranh vì được độc quyền sản xuất ở địa phương đó và được hưởng các chính sách bảo hộ trước bia nhập khẩu. Mỹ có 67 nhà máy bia lớn, sản xuất ra 23 tỷ lít bia mỗi năm trong khi 1000 nhà máy của Đức chỉ sản xuất bằng một nửa. Trung bình, một nhà máy bia của Mỹ có hiệu suất gấp 31 lần của Đức.

Sự chênh lệch này là kết quả của thị hiếu địa phương và chính sách của Chính phủ. Người Đức cực kỳ trung thành với thương hiệu nhà. Họ chẳng cần phân biệt các thương hiệu với nhau vì bia được tiêu thụ trong vòng 30 dặm từ nơi ủ. Trong khi người Mỹ ai cũng biết thương hiệu của mình từ Budweiser, Miller hay Coors.

Ngành công nghiệp ở Đức không thể tạo ra nhiều lợi nhuận vì quy mô của nền kinh tế. Người Đức trung thành với bia Đức cũng bởi nhà nước quy định vậy. Bia ngoại khó có thể cạnh tranh vì chính phủ đưa ra luật về độ tinh khiết, trong đó quy định về những hợp chất nhất định. Đó chắc chắn không phải những hợp chất mà bia Mỹ, Pháp hay Thụy Điển có thể tuân theo. Vì lẽ đó mà bia Đức cũng khó cạnh tranh ở nước ngoài. Người mua bia Lowenbrau của Đức ở Mỹ cũng chẳng lạ gì dòng chữ: “Bia này không ủ được tại Đức mà ủ trên dây chuyền sản xuất của Mỹ.” Ngành công nghiệp xà phòng và điện tử tiêu dùng của Đức cũng kém hiệu quả vì thiếu đối thủ cạnh tranh.

Nhược điểm của ngành sản xuất bia Đức đã củng cố thêm lý thuyết về việc quá nhiều nhóm nhỏ và không cạnh tranh sẽ dẫn tới kém hiệu quả. Cùng nhìn sang ngành công nghiệp chế biến của Nhật Bản với 67.000 công ty nhưng chỉ đạt hiệu suất trung bình bằng 32% Mỹ (ở Mỹ có khoảng 21000 công ty). Dân số Mỹ lớn hơn Nhật Bản rất nhiều, vậy mà khi chia trung bình, Mỹ vẫn gấp Nhật tới 6 lần.

Cũng giống như niềm tin của người Đức, người Nhật tuyệt đối tin tưởng thực phẩm tươi sống. Nếu từng đến Nhật, bạn sẽ hiểu họ quan trọng ngày tháng trên bao bì thực phẩm như thế nào. Thùng sữa ở Mỹ chỉ đề ngày hết hạn trong khi ở Nhât luôn ghi rõ 3 loại ngày tháng: ngày sản xuất, ngày tới siêu thị và ngày hết hạn. Sữa được sản xuất trong đêm và tới siêu thị khi trời sáng. Nếu thùng sữa ra lò lúc 11:59 (tức là ngày hôm qua) thì nhiều người Nhật sẽ không mua. Do đó, sữa là ngành sản xuất mang tính độc quyền địa phương. Một nhà máy ở Hokkaido rõ ràng không thể cạnh tranh với nhà máy ở Kyushu, bởi đến khi sữa được chuyển đến Kyushu đã chẳng ai thèm mua nó.

Sự cuồng tín về thực phẩm sạch đã dẫn tới mô hình độc quyền địa phương. Thêm vào đó, chính phủ Nhật cũng đưa ra các chính sách củng cố vị thế của công ty địa phương. Chính phủ cản trở nhập khẩu các thực phẩm có thời hạn quá mười ngày như bò Mỹ, thịt gà vì người dân không tiêu thụ.

Kết quả là doanh nghiệp Nhật không phải cạnh tranh trong nước, cũng không tiếp xúc với đối thủ nước ngoài. Thịt bò biến thành món xa xỉ ở Nhật với giá khoảng 200 USD/ 1 pound (1 pound tương đương 0.45 kg), thịt gà có giá 25 USD/ 1 pound.

Tất nhiên điều này không đúng với các ngành công nghiệp thần kì khác của Nhật như thép, kim loại, xe hơi và các ngành công nghiệp điện tử hiện đại có đối tác từ Mỹ.

Vậy các ngành công nghiệp của Mỹ thì sao? Như tôi đề cập ở trên về sự áp đảo của thung lũng Silicon với Route 128, sau khi xuất bản “Súng, vi trùng và thép” tôi dành nhiều thời gian để trao đổi với các chuyên gia về hai khu vực này. Họ nói với tôi rằng đặc tính của các công ty ở hai vành đai công nghệ này khá khác nhau. Các công ty ở thung lũng Silicon đều cạnh tranh gay gắt và cho đó là điều hiển nhiên. Họ sẵn sàng trao đổi thông tin và mua bán các ý tưởng có lợi cho mình. Trong khi ở Route 128, các ý tưởng kinh doanh đều được giữ kín và tách biệt như các công ty sữa ở Nhật Bản.

Đó cũng là sự khác biệt giữa Microsoft và IBM. Tôi từng nài nỉ bạn bè làm việc tại Microsoft cho biết về mô hình hoạt động của “gã khổng lồ”. Tôi khá ấn tượng với mô hình làm việc theo đơn vị nhỏ, từ 5 đến 10 người, luôn không ngừng giao tiếp và trao đổi ý tưởng. Các đơn vị này được thành lập bất thường và cũng có thể tan rã. Trái với Microsoft, IBM của bốn năm về trước hoạt động theo mô hình các nhóm bí mật riêng rẽ dẫn tới mất khả năng cạnh tranh trong công ty. Sau khi CEO mới Ginni Rometty lên nắm quyền, bà đã quyết định thay đổi mô hình hoạt động theo hướng cởi mở như Microsoft và giúp công ty đạt được những thành tựu đáng kể.

Nhìn về lịch sử nhân loại, chúng ta có thể thấy được một vài nguyên tắc bất thành văn. Thứ nhất, cô lập là bất lợi vì đa phần các nhóm đều lấy các ý tưởng từ bên ngoài. Thứ hai, nguyên tắc phân mảnh tối ưu khuyên bạn đừng cố tìm đến sự thống nhất, cũng đừng phân nhóm thành quá nhiều mảnh. Để xã hội vận hành hiệu quả, hãy tạo ra một số nhóm cạnh tranh với nhau nhưng vẫn đảm bảo được sự kết nối và giao lưu tự do. Đó phải chăng chính là nguyên tắc hoạt động vươn tới sự giàu có của một tổ chức doanh nghiệp?

Nhưng hãy để tôi kết thúc bài viết bằng một số điểm hạn chế sau đây, đó là “xét trong hoàn cảnh mọi thứ khác đều ngang bằng”. Như tôi đã đề cập ở trên, một tổ chức hoàn hảo giao cho một kẻ ngốc thì sớm muộn cũng thất bại. Như Microsoft phải nhờ có người như Bill Gates mới thành công được như hôm nay.

Ngoài ra, tôi cũng đã nói về các điều kiện để tối đa hóa năng suất, kích thích sáng tạo và khả năng sinh lời. Có những thứ khác phải xem xét đến trong một tổ chức, và không phải lúc nào năng suất cũng là thứ bạn đặt lên hàng đầu. Có những trường hợp mà tập trung hóa là cần thiết hơn. Như trong một cuộc chiến, bạn sẽ không muốn phân tán lực lượng cho cả không quân, hải quân và bộ binh để chúng chèn ép lẫn nhau. Nhưng nhớ là đừng cân nhắc tối ưu hóa năng suất trong gia đình nhé. Nếu bạn về nhà và bảo vợ rằng ông Jared Diamond khuyên chúng ta nên biết cạnh tranh để tạo ra nhiều của cải hơn, nên từ tháng này ai kiếm được nhiều tiền hơn sẽ được nghỉ ngơi, người kiếm ít hơn thì phải làm mọi việc nhà. Như thế thì bạn chết chắc!

Trong gia đình và một số tổ chức đặc biệt, rõ ràng không nên dùng năng suất để đánh giá hiệu quả của cá nhân hoặc cả nhóm. Nhưng với các nhóm như doanh nghiệp, ngành công nghiệp, quốc gia thì năng suất là yếu tố tối quan trọng. Để tiến tới sự giàu có và thịnh vượng, chúng ta có thể thử nghiệm các mô hình tổ chức khác nhau trên doanh nghiệp, xem doanh nghiệp nào phá sản trước (nếu bạn đủ nguồn lực). Sau 20 năm, có lẽ ta sẽ tìm ra cách tốt nhất. Nhưng cách làm đó thật ngu ngốc. Tôi tin rằng việc nhìn lại lịch sử để so sánh các mô hình tổ chức khác nhau sẽ mang đến cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Hy vọng rằng các bạn có thể áp dụng những bài học này để đạt tới sự giàu có – cái thứ cho đến nay vẫn lảng tránh tôi.

(st)

Share:

Vô thức Tập thể của Nhân loại

 Vô thức tập thể theo quan niệm của Jung là phần sâu nhất của tâm thần quyết định số phận cá nhân cũng như xã hội. Nó là nơi lưu trữ kinh nghiệm của chúng ta với tư cách là một loài.

I. LƯỢC SỬ KHÁI NIỆM

Vô thức tập thể (Collective unconscious) là thuật ngữ do nhà tâm lí học phân tích người Thuỵ Sĩ Carl Jung (1875-1961) đặt ra vào đầu thế kỉ XX để chỉ một cấu trúc tâm lí chung cho mọi con người thuộc mọi thời đại. Trước khi Jung nêu ra khái niệm này , Sigmund Freud (1856-1939), người sáng lập phân tâm học lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ vô thức. Thuật ngữ vô thức do Freud đề xuất và phát triển về sau này để trở thành hạt nhân của học thuyết phân tâm học của ông hoàn toàn chỉ mang tính cá nhân, theo đó, vô thức là những kí ức bị dồn nén khỏi ý thức nhưng có thể khôi phục lại được nhờ các kĩ thuật phân tâm học. Một nhà tâm lí học khác, Carl Jung, sau một quá trình cộng tác lâu dài với Freud từ 1907-1913 với tư cách một cộng sự và chủ tịch Hội Phân tâm học quốc tế từ 1908 đến 1914, đã bất đồng quan điểm sâu sắc với Freud trong việc nhấn mạnh tính cá nhân của vô thức này cũng như yếu tố tính dục và mặc cảm Oedipus như là nguồn gốc của sự phát triển tâm lí cá nhân và văn hoá xã hội. Sự chia tay giữa hai nhà tâm lí học lớn này đã đánh dấu sự khởi đầu của hai trường phái tâm lí học với hai cách nhìn về vô thức khác hẳn nhau, đặc biệt là thuật ngữ “vô thức tập thể” do Jung đề xuất để phân biệt với vô thức của Freud mà ông gọi là “vô thức cá nhân”. Tuy nhiên, nguồn gốc sự ra đời của thuật ngữ này lại xuất phát từ ba nguồn có sự phụ thuộc sâu sắc lẫn nhau:

1. Giấc mơ bản thân và ý tưởng về vô thức tập thể: Ý tưởng về vô thức tập thể lại bắt nguồn từ một giấc mơ của Carl Jung. Trong tự truyện Những kí ức, giấc mơ và suy nghĩ của mình, Jung kể về sự phát hiện các lớp của vô thức từ một giấc mơ mà ông trải qua trong chuyến đi giảng bài ở Mỹ năm 1909 cùng với Freud. ông mơ về một ngôi nhà(được gọi là “nhà của tôi” trong bối cảnh giấc mơ) gồm nhiều tầng. Trong giấc mơ đó ông khảo sát các tầng của một ngôi nhà từ tầng chính (thời hiện đại), đến móng (quá khứ lịch sử gần) và vượt qua đó tới tận các tầng hầm (quá khứ lịch sử cổ xưa, như thời Hi Lạp và La Mã, và cuối cùng là quá khứ tiền sử và thời Paleolithic). Giấc mơ này được Jung suy nghĩ trong một thời gian dài và đã trả lời cho ông một câu hỏi mà ông đã tự hỏi trong chuyến đi “tâm lí học của Freud đã được dựa trên những tiền đề gì? Nó thuộc về phạm trù nào của tư tưởng con người”. Hình ảnh giấc mơ này, Jung viết, “trở thành một hình ảnh dẫn đạo” cho việc nhận biết cấu trúc tâm thần như thế nào. “Nó chính là ấn tượng đầu tiên của tôi về một tính tập thể và tiên nghiệm phía bên dưới tâm thần cá nhân”.

Lịch sử ra đời thuật ngữ vô thức tập thể có cảm tưởng là quá đơn giản, nhưng thực ra đó chỉ là khúc dạo đầu để có một ý tưởng về vô thức tập thể. Sự ra đời hoàn toàn của thuật ngữ này chắc chắn không chỉ bắt nguồn từ một giấc mơ, mà phải bắt từ những nghiên cứu khoa học của Jung.

2. Nghiên cứu bệnh tâm thần của một bệnh nhân từ 1909-1913 

Là một nhà khoa học, trong thời gian là cộng sự của Flournoy (1900-1909), một nhà tâm lí học và tâm thần học Thuỵ Sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, Jung được biết tới một cô gái tên là Miller đang trong giai đoạn đầu của bệnh tâm thần phân liệt. Những huyễn tưởng của Miller về một anh hùng Chiwantopel của Nam Mỹ đã gợi ý cho ông về những thuộc tính chung trong tâm lí con người không bị chi phối bởi chủng tộc và thời đại. Khảo sát kĩ hơn về các thần thoại, truyện cổ tích và các mô típ tôn giáo có liên quan đến những huyễn tưởng của Miller đã khiến Jung ngạc nhiên vì sự giống nhau đến kì lạ của của các chủ đề chung đó từ thần thoại Ai Cập cổ đến các bộ lạc bản địa châu Úc, và những thổ dân da đỏ châu Mỹ. Câu hỏi mà ông đã đặt ra và tìm được phần nào câu trả lời qua giấc mơ trong chuyến đi Mỹ nay được củng cố thêm bởi những nghiên cứu khoa học nghiêm túc về sự xuất hiện của những hình ảnh đó. Nguồn gốc của nó theo Jung, phải bắt nguồn từ một lớp tâm lí sâu hơn có tính phổ quát. Và những ý tưởng về một lớp vô thức phi cá nhân như vậy, đã được Jung trình bày trong cuốn Những biến hoá và tượng trưng của libido xuất bản năm 1913, không chỉ đánh dấu sự ra đời của một học thuyết mới, mà còn là sự kết thúc của mối quan hệ 7 năm với người sáng lập phân tâm học là Sigmund Freud.

3. Nghiên cứu  tâm lí từ sau năm 1913

Với việc đề xuất khái niệm vô thức tập thể trong bài viết ngắn “Cấu trúc của vô thức” năm 1916 (1) nhằm giải quyết các vấn đề khó khăn mà mình gặp phải trong khi nghiên cứu tâm lí học và áp dụng tâm lí trong nghiên cứu các vấn đề văn hoá như thần thoại, tôn giáo, Jung cố gắng tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm cho thuật ngữ mà ông đề xuất để tránh sự phê phán của những nhà tâm lí học thực nghiệm thuộc các trường phái tâm lí học hành vi, tâm lí học nhân văn, tâm lí học Gestalt v.v… cũng như các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác như triết học, thần học, thần thoại học v.v… Tuy nhiên, trong cả sự nghiệp khoa học của ông, việc tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm cho thuật ngữ này tỏ ra không có ích và ông chỉ có thể thu được những bằng chứng cho giả thuyết của mình thông qua sự quy nạp các trường hợp nghiên cứu khoa học để rút ra kết luận về tính xác thực của giả thuyết về vô thức tập thể. Qua hàng vạn giấc mơ và huyễn tưởng được phân tích kĩ càng, Jung đã nhận thấy sự giống nhau đến kì lạ của những hình ảnh, môtíp, chủ đề trong đó dù những người nằm mơ thuộc các nền văn hoá khác nhau với tuổi tác và trình độ học vấn khác nhau để cuối cùng đi đến sự củng cố cho chính ông về sự tồn tại một lớp vô thức chung, mang tính tập thể trong tâm lí con người.

“Trước tiên những huyễn tưởng (bao gồm cả các giấc mơ) mang bản chất cá nhân, mà chắc chắn thuộc về những kinh nghiệm cá nhân, những gì bị lãng quên hay bị dồn nén, và hoàn toàn có thể giải thích được bằng tiền sử cá nhân. Thứ đến, những huyễn tưởng (bao gồm cả các giấc mơ) mang đặc trưng phi cá nhân, không thể quy giản về quá khứ cá nhân, và do đó, không thể giải thích như những gì mà cá nhân đạt được. Những hình ảnh huyễn tưởng này không ngi ngờ gì là có những liên hệ khăng khít với các môtíp huyền thoại. Do đó chúng ta phải cho rằng chúng tương ứng với những yếu tố cấu trúc tập thể (và phi cá nhân) của tâm thần con người nói chung, và giống như thể xác, được thừa hưởng. Mặc dù truyền thống và sự truyền phát bằng di cư chắc chắn chiếm một vai trò, nhưng như chúng tôi đã nói, có rất nhiều trường hợp không thể giải thích bằng cách này và thúc đẩy chúng ta về một giả thuyết ‘sự phục hồi nguyên thuỷ’. Những trường hợp này nhiều đến mức mà chúng ta buộc phải giả định sự tồn tại của một cơ tầng tâm thần tập thể. Tôi gọi cơ tầng này là vô thức tập thể” (2)

Ngày nay, khái niệm hay đúng hơn là thuật ngữ vô thức tập thể đã trở nên phổ biến và được nhiều người, trong đó cả người bình thường lẫn các nhà khoa học nói đến theo cả hai hướng thừa nhận và không thừa nhận, dù lịch sử ra đời của thuật ngữ này không phải ai cũng biết đến. Và dĩ nhiên sự tranh luận, phê phán về bản chất thuật ngữ này vẫn còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ cho đến tận bây giờ.

II. ĐỊNH NGHĨA VÀ NỘI DUNG CỦA VÔ THỨC TẬP THỂ

1. Định nghĩa: Vô thức tập thể theo quan niệm của Jung là phần sâu nhất của tâm thần quyết định số phận cá nhân cũng như xã hội. Nó là nơi lưu trữ kinh nghiệm của chúng ta với tư cách là một loài, đó là những tri thức mà khi sinh ra chúng ta đã có sẵn, mang tính tiên nghiệm và không phụ thuộc vào môi trường hay hoàn cảnh như cách nhìn nhận của các tác giả khác chẳng hạn như Freud khi xem xét mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ trong giai đoạn trẻ con, đặc biệt từ 1 đến 6 tuổi, trong sự phát triển tâm lí. Như vậy có thể thấy khác với Freud, và cả các nhà tâm lí học hay triết học khác, học thuyết của Jung nói chung và khái niệm cơ bản nhất của ông là vô thức tập thể nói riêng mang tính quyết định luận nhiều hơn so với các học thuyết tâm lí khác. Có thể thấy điều này khi ông chống lại quan điểm khẳng định sự phát triển tâm lí cá nhân chỉ bắt đầu từ khi cá nhân ra đời.

“Chúng ta giải thích bằng di truyền những tài năng và năng khiếu qua các thế hệ. Cũng như vậy, sự tái xuất hiện của những hành động bản năng phức tạp ở động vật không bao giờ bắt nguồn từ cha mẹ chúng, và do đó cũng không thể được dạy bởi cha mẹ chúng. Ý tưởng rằng ‘bản chất con người’ không được di truyền mà tự xuất hiện ở mỗi đứa trẻ thật là không thích hợp như một niềm tin ngây thơ rằng mặt trời mọc buổi sáng khác với mặt trời lặn buổi tối” (3)

Hay khi viết về cấu trúc bẩm sinh của tâm lí con người, Jung cho rằng:

“Con người ‘sở hữu’ nhiều thứ mà mình không hề đạt được mà được thừa hưởng từ tổ tiên của mình. Anh ta không sinh ra như một tabula rasa [tấm bảng trắng], mà còn được sinh ra với một vô thức. Anh ta mang theo mình những cấu trúc được tổ chức và sẵn sàng hoạt động theo một cách đặc thù con người mà anh ta có được nhờ hàng triệu triệu năm phát triển loài người… Giống như những bản năng xây dựng tổ và di cư của các loài chim không bao giờ học hay đạt được, con người mang theo mình nền tảng của bản chất ngay khi sinh, và không chỉ là bản chất cá nhân mà còn là bản chất tập thể” (4)

Xét về bản chất như vậy thì vô thức tập thể mang tính đồng nhất ở mọi người và mọi cá nhân và “tạo thành một cơ tầng tâm lí chung mang bản chất siêu cá nhân hiện diện ở mỗi người”. Định nghĩa của ông trong tiểu luận Khái niệm vô thức tập thể năm 1936 cho rằng vô thức tập thể “là một phần của tâm thần được phân biệt khỏi vô thức cá nhân bởi việc chúng, không giống vô thức cá nhân, không tồn tại nhờ kinh nghiệm cá nhân và kết quả là không phải một chiếm hữu cá nhân” (5) có thể coi là định nghĩa chính thức về thuật ngữ bị tranh cãi nhiều này được. Đồng thời Jung cũng cho rằng khái niệm vô thức tập thể thuộc về “sự phân loại những ý tưởng mà con người cảm giác xa lạ nhưng sớm sở hữu và sử dụng chúng như những khái niệm thân thuộc” (6). Triển khai sâu hơn định nghĩa này Jung cho rằng “vô thức tập thể, với tư cách là nơi lưu trữ những kinh nghiệm con người và đồng thời là tiền đề của những kinh nghiệm đó, là một hình ảnh về thế giới được tạo dựng qua nhiều thời đại. Trong hình ảnh này, những đặc điểm nhất định, những cổ mẫu hay những yếu tố thống trị (dominants) tích tụ qua thời gian” (7) và quan trọng hơn cả, Jung gắn vô thức tập thể với sinh học khi xác định “vô thức tập thể chứa đựng tất cả di sản tinh thần của sự tiến hoá con người, được tái hiện lại ở cấu trúc não của mọi cá nhân” (8).

Định nghĩa về vô thức tập thể của Jung nói chung không hề biến đổi theo thời gian mà nó chỉ được bổ sung thêm, củng cố thêm bởi những bằng chứng lí thuyết hay thực nghiệm mà ông sưu tầm và nghiên cứu từ thần thoại, tôn giáo, và giả kim thuật và các khoa học xã hội hay tự nhiên khác. Và dĩ nhiên, những bằng chứng có tính “thực nghiệm”hoàn toàn như sự phát hiện cơ chế IRM (innate release mechanism) trong các loài động vật bởi các nhà sinh học và y học trong những năm 1970 đã phần nào khẳng định tính thực nghiệm mà Jung cố gắng tìm kiếm trong cả cuộc đời mình mà không thấy.

2. Cổ mẫu: Một vấn đề tiếp theo khi đề cập đến vô thức tập thể là xác định bản chất hay nội dung của nó bởi vì một khái niệm hay thuật ngữ như vô thức tập thể mà không có nội dung thì chỉ là một định nghĩa thuần tuý, một giả thuyết thiếu sức thuyết phục, hay chỉ là một thuật ngữ mang tính triết học trừu tượng. Trong quá trình nghiên cứu thực nghiệm từ 1904-1910, Jung đã tìm được qua các test liên tưởng của mình sự cấu thành vô thức cá nhân từ những tổ hợp mang sắc thái cảm xúc (complex), tức là những “nguyên tử” của tâm thần được tạo ra chủ yếu từ những chấn động (trauma) do xung đột giữa cái tôi và môi trường bên ngoài. Còn với vô thức tập thể, những nội dung của nó đã được Jung cố gắng tìm kiếm thông qua việc nghiên cứu các huyền thoại, các chuyện cổ tích, phân tích giấc mơ, nghiên cứu và điều trị y học, nghiên cứu tôn giáo, giả kim thuật và từ đó phát hiện ra cổ mẫu (archetype) là yếu tố cấu thành của vô thức tập thể. Có thể nói không sai rằng toàn bộ cổ mẫu chính là nội dung của vô thức tập thể, hay so sánh một cách đơn giản hơn, vô thức tập thể là một vòng tròn bao quanh tất cả các cổ mẫu. Bản chất của cổ mẫu, do gắn với bản năng, có thể được xem như “gene tâm lí” của con người hoặc hạt quark trong vật lí lượng tử vậy. Và vì theo quan niệm của Jung, ứng với mỗi một trạng thái của con người sẽ có một cổ mẫu tương ứng, chẳng hạn như cổ mẫu người mẹ, người cha, người anh hùng… nên số lượng cổ mẫu là vô tận và trong quá trình tìm kiếm cổ mẫu, Jung nhận thấy một số các cổ mẫu thể hiện quá trình phát triển tâm lí cá nhân theo một dòng liên tục, đó là shadow, anima, animus, self.  Các cổ mẫu này có tác dụng dẫn đường và điều phối sự phát triển tâm lí con người từ một tâm thần nguyên thuỷ chung thành những cá nhân riêng biệt mà Jung gọi là quá trình cá nhân hoá (individuation).

2.1. Shadow

Theo Jung, trong quá trình phát triển của mình, đặc biệt để tạo dựng một chiếc persona, con người buộc phải che dấu một phần nhân cách của mình. Phần nhân cách bị che dấu đó, cả tốt lẫn xấu mà cái tôi hoặc là dồn nén hoặc là không bao giờ nhận biết được, có vai trò ngược lại với persona, được ông gọi là shadow. Đối với một người bình thường, cái tôi không thể kiểm soát được shadow, và không trải qua trực tiếp shadow mà nó được phóng chiếu lên người khác. Việc tìm hiểu và hoà nhập shadow (cũng như persona) là một việc làm mà theo Jung hết sức khó khăn.

“Shadow là một vấn đề đạo đức thách thức nhân cách cái tôi tổng thể vì không ai có thể ý thức được shadow mà không có nỗ lực đạo đức đáng kể. Để ý thức được nó đòi hỏi sự nhận biết những mặt tối của nhân cách đang hiện diện và thực” (9).

Trước khi những nội dung ý thức được phân biệt thì trên thực tế, shadow là toàn thể vô thức. Nó thường được nhân cách hoá trong các giấc mơ bởi những người cùng giới với người nằm mơ.

Về bản chất, shadow được cấu thành chủ yếu từ ham muốn bị dồn nén và những xung lực hoang dã, những động cơ thấp kém về đạo đức, những huyễn tưởng trẻ con và những sự thù hận… tức là tất cả những gì mà con người không tự hào. Những đặc trưng cá nhân không được nhận biết này thường được trải nghiệm qua người khác thông qua sự phóng chiếu.

“Mặc dù với sự nhìn nhận sâu sắc và thiện ý, trong một phạm vi nào đó, shadow có thể được đồng hoá vào nhân cách ý thức, kinh nghiệm cho thấy rằng có những đặc điểm nhất định tạo ra những sự kháng cự mạnh mẽ trước sự kiểm soát đạo đức và dường như không thể bị ảnh hưởng. Những kháng cự này thường gắn với những phóng chiếu và không được nhận biết, và việc nhận biết chúng là một nỗ lực đạo đức vượt qua những gì thông thường. Trong khi một số nét tính cách là xa lạ với shadow có thể được nhận biết mà không có quá nhiều khó khăn vì những phẩm chất cá nhân của chúng, trong trường hợp này thì cả những nhìn nhận sâu sắc và thiện ý cũng không đủ bởi vì nguồn gốc của tình cảm xuất hiện dưới dạng lừa dối vượt qua mọi khả năng nghi ngờ của một người” (10).

Việc nhận biết shadow bị ngăn cản bởi persona. Trong chừng mực chúng ta đồng nhất với một persona sáng thì shadow sẽ tối vì shadow và persona tồn tại trong một mối quan hệ bù trừ, và xung đột giữa chúng luôn hiện diện trong sự bùng phát của nhiễu tẫm.

Cũng theo Jung thì không có những kĩ thuật hiệu quả chung để đồng hoá shadow. Tuy vậy, Jung cho rằng có ba bước để thực hiện điều này. Trước hết, chúng ta phải chấp nhận và xem xét nghiêm túc sự tồn tại của shadow. Thứ đến cần phải nhận biết những phẩm chất và ý định của nó. Điều này có thể thực hiện được thông qua sự chú ý cẩn thận tới những cảm xúc, huyễn tưởng và xung lực. Và bước cuối cùng, một cuộc “thương lượng” lâu dài là điều không thể tránh khỏi.

Cũng theo Jung, trách nhiệm với shadow là thuộc về cái Tôi. Đó chính là lí do mà shadow thuộc về vấn đề đạo đức. Đó cũng là việc nhận ra shadow là gì và chúng ta có khả năng gì và đây chính là điều khó khăn nhất:

“Đương đầu với shadow trước hết tạo ra một sự cân bằng nguy hiểm, một bế tắc cản trở những quyết định đạo đức và khiến cho mọi sự tin tưởng trở nên vô hiệu và thậm chí là không thể” (11) .

Nhưng shadow không chỉ có mặt xấu vì những mong đợi của xã hội áp đặt lên cá nhân không phải lúc nào cũng vì cá nhân mà nhiều khi mang tính tập thể và chỉ vì xã hội. Mặt bị che dấu trong shadow chỉ là những gì không thích nghi được với xã hội nhưng lại có tính tích cực:

“Shadow chỉ là những gì yếu kém, nguyên thuỷ, không thích nghi và trở ngại chứ không hoàn toàn xấu. Thậm chí nó còn chứa đựng những phẩm chất nguyên thuỷ và trẻ con, và theo cách đó tăng cường và tô điểm cho sự tồn tại con người mà những quy ước ngăn cấm!” (12)

Shadow, theo quan niệm của Jung là những gì mà một người phải đương đầu khi từ bỏ sự đồng nhất với persona để tiếp tục quá trình cá nhân hoá mình. Trong quá trình này, một cổ mẫu khác, hoàn toàn mang đặc điểm của vô thức tập thể, được coi là mang tính “số phận” sẽ được gặp và phải vượt qua. Cổ mẫu đó là anima ở nam giới hay animus ở phụ nữ. 

2.2. Anima

Anima là khía cạnh nữ tính ở nam giới. Đó vừa là một tổ hợp cá nhân vừa là một cổ mẫu trong tâm thần đàn ông. Đó là một nhân tố vô thức được tái hiện lại ở mọi đứa bé trai và là nguồn gốc của những phóng chiếu tâm lí. Lúc đầu, anima được đồng nhất với người mẹ nhưng sau đó nó được trải nghiệm ở những phụ nữ khác và có ảnh hưởng chi phối đến toàn bộ cuộc đời người đàn ông. Jung viết như sau.

“Ở mỗi một người đàn ông có một hình ảnh không chỉ của người mẹ, mà còn cả con gái, chị gái, người yêu, nữ thần. Mọi người mẹ và người yêu buộc phải là người chuyên chở và hoá thân của hình ảnh siêu quyền lực và phi thời đại này, tương ứng với thực tế sâu nhất ở một người đàn ông” (13)

Theo Jung, với tư cách là một nhân tố bên trong, anima là sự bổ sung cho persona và tồn tại trong quan hệ bù trừ với persona.

“Persona, hình ảnh lí tưởng mà một người đàn ông muốn vậy, được bù trừ ở bên trong bởi sự yếu kém nữ tính, và vì ở bên ngoài, cá nhân đóng một vai trò mạnh mẽ, nên ở bên trong, anh ta chỉ là một người phụ nữ, tức là anima, vì anima đã phản ứng lại persona. Nhưng bởi vì thế giới bên trong là tăm tối và vô hình… người đàn ông hoàn toàn không thể nhận biết được sự yếu kém của mình và khi anh ta càng đồng nhất mình với persona, mặt đối trọng với nó, anima hoàn toàn sẽ ở trong bóng tối và ngay lập tức được phóng chiếu, do vậy mà những anh hùng thường chết dưới chân những người đẹp” (14)

Ở đây những đặc điểm của anima nói chung có thể suy ra từ những đặc điểm của chính persona, tất cả những phẩm chất vắng mặt ở thế giới bên ngoài sẽ được thấy ở thế giới bên trong.

“Những bạo chúa bị tra tấn bởi những giấc mơ xấu, những cảm xúc buồn bã và tuyệt vọng và những nỗi sợ bên trong là một hình ảnh điển hình. Ở bên ngoài là một con người tàn bạo, độc ác và không thể đến gần, họ hướng vào bên trong với shadow, và với lòng trắc ẩn của mọi cảm xúc, dường như mình là người yếu đuối nhất và ấn tượng nhất của mọi người đàn ông. Do đó, anima chứa đựng tất cả những phẩm chất sai lầm mà persona của họ thiếu. Nếu persona là trí tuệ, thì anima chắc chắn là tình cảm” (15)

Tương tự, khi một người đàn ông đồng nhất với persona, anh ta trên thực tế bị “chi phối” bởi anima với những biểu hiện đáng chú ý:

“Sự đồng nhất với persona sẽ tự nhiên đưa tới sự đồng nhất vô thức với anima bởi vì khi cái tôi không phân biệt mình khỏi persona được, nó không thể có liên hệ có ý thức với các quá trình vô thức… Bất kì ai mà vai trò xã hội bên ngoài chắc chắn phụ thuộc vào những quá trình bên trong thì sẽ hoặc là giận dữ với vai trò bên ngoài đó bởi một sự cần thiết bên trong tuyệt đối hoặc giảm nó xuống thành một sự lố bịch, bởi quá trình hướng tới các mặt đối lập. Anh ta sẽ không còn giữ được con đường cá nhân của chính mình và cuộc sống của anh ta sẽ lâm vào từ chỗ bế tắc này đến chỗ bế tắc khác. Hơn thế nữa, anima chắc chắn sẽ được phóng chiếu lên một đối tượng thực mà với nó anh ta rơi vào một mối quan hệ phụ thuộc hoàn toàn” (16)

Đối với Jung thì nếu việc gặp gỡ với shadow chỉ là bước đầu trong quá trình phát triển tâm lí của một người đàn ông thì việc gặp gỡ và chấp nhận anima là bước tối quan trọng cũng trong quá trình đó. Mục tiêu của cá nhân hoá đòi hỏi một sự biến đổi chức năng anima với tư cách là một “tổ hợp tự trị của tâm thần” thành một chức năng liên hệ giữa ý thức và vô thức. Jung gọi quá trình này là sự chinh phục anima với tư cách một tổ hợp tự trị.

“Với việc đạt được mục tiêu này, có thể tách cái tôi ra khỏi tất cả những ràng buộc của nó với tính tập thể và vô thức tập thể. Thông qua quá trình này, anima sẽ từ bỏ sức mạnh ma quỷ của nó với tư cách một tổ hợp tự trị; anima sẽ không còn tác động sức mạnh chi phối, bởi vì nó đã bị vô hiệu lực. Nó sẽ không còn là ‘kẻ bảo vệ’ kho báu nữa” (17)

Theo Jung thì ưu tiên trong nửa đầu cuộc đời của một người đàn ông là giải phóng khỏi sự hấp dẫn anima từ người mẹ. Còn trong nửa sau cuộc đời, việc thiếu hụt mối quan hệ với anima sẽ mang đưa đến những cảm giác về sự thiếu hụt linh hồn:

“Những người trẻ tuổi… có thể chịu đựng sự thiếu hụt hoàn toàn anima mà không có chút tổn thương nào. Vấn đề quan trọng với họ ở giai đoạn đó là trở thành những người đàn ông. Tuy nhiên, sau thời trung niên, việc thiếu hụt anima có nghĩa là sự suy giảm sức sống, sự linh hoạt và lòng nhân ái. Kết quả của điều này sẽ là sự cứng nhắc không chín chắn, sự cáu gắt, khuôn mẫu, thái độ một mặt cực đoan, sự bướng bỉnh, mô phạm hoặc thoái lùi, mệt mỏi, ướt át, thiếu trách nhiệm và cuối cùng là sự hờn dỗi với xu hướng nghiện ngập” (18)

Vì anima có tầm quan trọng như vậy trong sự phát triển tâm lí cá nhân nên cũng theo Jung con người ở giai đoạn trung niên cần có những cuộc đối thoại thực sự và nghiêm túc với anima để vượt qua cái mà ông gọi là “cuộc khủng hoảng trung niên” hay sự mất ý nghĩa sau khi đã đạt được rất nhiều thành quả mà ông nhận thấy qua các “bệnh nhân” ngoài 35 tuổi của mình. Đối với chính Jung, việc đối thoại với anima của ông trong giai đoạn trung niên trong giai đoạn từ 1913 đến 1916 được ông hồi tưởng lại là “cực kì khó khăn” và sau này, ông đề xuất một kĩ thuật đối thoại mới mà mình phát hiện trong thời gian “đương đầu với vô thức” (1913-1918) là tưởng tượng tích cực, tức là nhân cách hoá anima thành một tổ hợp tự trị, đặt những câu hỏi cho anima và chú ý cẩn thận tới những phản ứng của nó.

“Tôi muốn nói đây là một kĩ thuật thực sự… Nghệ thuật của nó nằm ở việc làm cho hình ảnh vô hình đó được lắng nghe, xác lập một cơ chế biểu hiện tạm thời theo ý nó mà không để bị chi phối bởi cảm giác rằng mình đang chơi một trò đùa lố bịch với chính mình hoặc nghi ngờ tính xác thực của tiếng nói của nó” (19)

2.3. Animus

Thông thường, người ta cho rằng tâm lí đàn ông và phụ nữ là giống nhau, nhưng Jung cho rằng, tâm lí đàn ông và phụ nữ là khác nhau. Nếu như ở người đàn ông, Jung tìm ra anima, khía cạnh nữ tính vĩnh cữu thì khía cạnh nam tính vĩnh cửu ở người phụ nữ Jung cũng thấy nhưng với một bản chất rất khác đòi hỏi một cái tên khác, mà ông gọi là animus. Giống như anima, animus vừa là một tổ hợp cá nhân, vừa là một hình ảnh cổ mẫu.

“Phụ nữ được bù trừ bởi một yếu tố nam tính, và do vậy, vô thức của cô ta có dấu ấn nam tính, nếu có thể nói vậy được. Điều này đưa đến kết quả sự khác biệt đáng kểvề tâm lí  giữa đàn ông và phụ nữ và tương ứng tôi sẽ gọi nhân tố gây phóng chiếu ở phụ nữ này là animus, có nghĩa là tinh thần” (20)

“Animus là trầm tích, nếu có thể nói như vậy được, của tất cả kinh nghiệm của phụ nữ về đàn ông và không chỉ có vậy, đó cũng là một tồn tại sáng tạo và nảy nở, không theo nghĩa sáng tạo nam tính, mà theo nghĩa nó mang tới cái chúng ta có thể gọi là… những mầm mống sáng tạo” (21)

Trong khi anima ở người đàn ông hoạt động như một linh hồn, thì animus của một người phụ nữ lại hoạt động như mộttâm thần vô thức. Nó thể hiện sự tiêu cực ở những ý kiến cứng nhắc, những lập luận tập thể, và những giả định tiên nghiệm và vô thức khi tuyên bố chân lí tuyệt đối.

Sự nguy hiểm của sự chi phối bởi animus ở phụ nữ là:

“Một người phụ nữ bị chi phối bởi animus luôn ở trong trạng thái nguy hiểm của việc đánh mất nữ tính” (22)

Tuy nhiên, cũng theo Jung, animus sẽ là một nhân tố có ích nếu người phụ nữ đó có thể kể ra những khác biệt giữa những ý tưởng do tổ hợp tự trị này gây ra và những gì mà cô ta thực sự nghĩ.

“Giống như anima, animus cũng có mặt tích cực. Thông qua hình ảnh người cha, nó thể hiện không chỉ những lập luận có tính quy ước thuần tuý mà còn là những gì mà chúng ta gọi là “tinh thần”, đặc biệt là những ý tưởng triết học hay tôn giáo, hoặc đúng hơn là thái độ bắt nguồn từ chúng. Do đó animus là một nhân tố thúc đẩy tâm lí, một yếu tố trung gian giữa ý thức và vô thức và là một sự nhân cách hoá của vô thức” (23)

Cũng giống như anima, bất kì mặt nào của animus cũng có thể được phóng chiếu. Và cùng với một anima được phóng chiếu, nó có thể đưa đến những mong đợi không hiện thực và sự chua cay trong các mối quan hệ.

“Giống như anima, animus là một người tình hay ghen. Nó là một bậc thầy, trong việc nêu ra, thay vì một người đàn ông thực, một quan điểm về anh ta… những lập luận không thể bị chỉ trích. Những ý kiến của animus luôn mang tính tập thể và chúng vượt qua tất cả mọi cá nhân hay những nhận định cá nhân, hoàn toàn giống như cách anima gây ra những đoán định và phóng chiếu tình cảm giữa người đàn ông và vợ mình” (24)

Theo Jung, kĩ thuật đồng hoá các khía cạnh của animus ở phụ nữ cũng giống như đồng hoá anima ở đàn ông, tức làluôn đặt những câu hỏi về những ý kiến hay lập luận của chính cô ta.

“Kĩ thuật chấp nhận aminus về nguyên tắc cũng giống như trong trường hợp anima; chỉ có điều ở đây người phụ nữ phải học cách chỉ trích và kìm giữ quan điểm của mình ở một khoảng cách; không phải để dồn nén chúng, mà bằng việc tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc của chúng, xâm nhập sâu hơn vào bản chất, nơi mà cô ta sẽ phát hiện thấy những hình ảnh nguyên thuỷ, giống như những gì người đàn ông làm với anima” (25)

Theo quan điểm của Jung thì anima và animus là những gì mang tính số phận mà cá nhân không thể phủ nhận hay lẩn tránh được mà buộc phải đương đầu trên con đường trở thành chính mình, tức là khám phá cái tôi ý thức của mình chỉ là một phần của một nhân cách rộng lớn hơn. Từ kinh nghiệm bản thân cũng như những nghiên cứu khoa học của mình, Jung cho rằng việc học được cách chấp nhận anima/animus là một việc làm khó khăn của mỗi cá nhân ở thời trung niên, tức là giai đoạn ngoài 35 tuổi, khi persona đã được tạo dựng xong và cá nhân cảm thấy mất ý nghĩa trong cuộc sống (xét về bản chất Jung luôn cho rằng đó là sự thiếu hụt yếu tố tôn giáo ở những người này). Tuy nhiên, với việc đương đầu và vượt qua được anima/animus, cá nhân lại có cơ hội thực sự để khám phá cái phần sâu thẳm nhất mang tính điều phối toàn bộ sự phát triển tâm lí cá nhân, đó là một cổ mẫu về tính tổng thể và trọng tâm mà ông đặt tên là Self.

2.4. Self

Cổ mẫu cuối cùng của quá trình cá nhân hoá, mục tiêu mà mỗi cá nhân phải đạt được trong cuộc đời của mình được Jung nghiên cứu kĩ càng trong Aion: Nghiên cứu về hiện tượng của bản ngã. Như đã nói, Self là cổ mẩu về sự tổng thể và trọng tâm điều phối của tâm thần, một sức mạnh siêu cá nhân vượt qua cái tôi.

“Là một khái niệm thực nghiệm, Self nói đến toàn bộ hiện tượng tâm thần ở cá nhân. Nó biểu hiện cho sự thống nhất của nhân cách như một tổng thể, nhưng cái nhân cách tổng thể đó, do nội dung vô thức của nó, có thể chỉ một phần nào là ý thức, và khái niệm Self, phần nào mang tiềm ẩn tính thực nghiệm, nhưng cũng trong phạm vi đó, nó lại là một giả thuyết. Nói theo cách khác, nó bao gồm tất cả những gì có thể trải nghiệm được và không thể trải nghiệm được(hoặc chưa được trải nghiệm)… Nó là một khái niệm siêu nghiệm, vì nó giả định sự tồn tại của những nhân tố vô thức trên những cơ sở thực nghiệm, và do đó, đặc trưng cho một thực thể chỉ có thể mô tả một phần nào đó mà thôi” (26)

“Self không chỉ là trung tâm mà còn là cái vòng tròn bao bọc cả ý thức lẫn vô thức. Nó là trọng tâm của tổng thể này, giống như cái tôi là trọng tâm của ý thức” (27)

Giống như bất kì cổ mẫu khác, bản chất thực sự của Self là không thể biết được, nhưng nó biểu hiện nội dung của nó trong các huyền thoại và truyền thuyết.

“Self xuất hiện trong các giấc mơ, huyền thoại, và chuyện cổ tích dưới hình ảnh một ‘nhân cách siêu phàm’, chẳng hạn như vua, anh hùng, nhà tiên tri, người cứu hộ v.v… hoặc dưới hình thức một biểu tượng tổng thể, chẳng hạn như vòng tròn, hình vuông, quadratura circuli, chữ thập v.v… Vì nó biểu hiện một complexio oppositorum, một sự thống nhất của các mặt đối lập, nó cũng xuất hiện như là một  nhị nguyên thống nhất dưới hình thức chẳng hạn như đạo với sự tương tác giữa yin và yang, hoặc hình ảnh những người anh em thù địch, hoặc là anh hùng và kẻ thù (ma quỷ), Faust và Mephistopheles… Do đó, về mặt thực nghiệm, Self biểu hiện như là sự tương tác giữa ánh sáng và bóng tối, mặc dù được nhận biết như là một tổng thể và sự thống nhất trong đó các mặt đối lập được thống nhất” (28)

Sự nhận biết Self như một nhân tố tâm thần tự trị thường được thúc đẩy bởi sự xuất hiện của những nội dung vô thức mà cái tôi không kiểm soát được. Điều này có thể đưa đến nhiễu tâm và sự đổi mới sau đó của nhân cách, hoặc là một sự đồng nhất có tính lạm phát với một sức mạnh lớn hơn.

“Cái tôi không thể giúp phát hiện ra dòng những nội dung vô thức đã làm tăng sức sống cho nhân cách, làm phong phú nó, và tạo ra một hình ảnh làm yếu đi cái tôi về phạm vi và sự sâu sắc đôi chút… Về mặt tự nhiên, trong những điều kiện này, có một sự hấp dẫn nhất khi xem xét bản năng sức mạnh và sự đồng nhất hoá của cái tôi và Self, nhằm tiếp tục giữ ảo tưởng về sự làm chủ của cái tôi… Nhưng Self có một ý nghĩa chức năng chỉ khi nó hoạt động có tính cách bù trừ cho cái tôi ý thức. Nếu cái tôi bị tan biến trong sự đồng nhất với Self, nó sẽ đưa tới một kiểu siêu nhân “mơ hồ”với một cái tôi bị lạm phát” (29)

Đối với Jung, Self có một đặc điểm “linh thiêng” giống như tính thần thánh trong các tôn giáo. Thậm chí, ông còn đặt ngang Self với chúa, coi chúa chỉ thuần tuý là một khái niệm tâm lí học nhằm diễn tả những gì nằm ngoài sự hiểu biết của con người. Trong Aion: Nghiên cứu về hiện tượng của bản ngã, Jung coi Jesus là một biểu tượng của Self. Đây cũng là điểm mà Jung bị những nhà thần học và duy vật sau này lên án. Jung viết trong một đoạn kết của một cuốn sách của mình về Self như sau: “Nó hoàn toàn có thể được gọi là ‘chúa ở trong ta’” (30)

III. NHỮNG TRANH LUẬN VỀ VÔ THỨC TẬP THỂ

Xung quanh thuật ngữ vô thức tập thể này có sự tranh luận sâu sắc mà đến bây giờ sự đồng thuận chỉ có nhiều hơn trước chứ không có sự đồng thuận cuối cùng như những thuật ngữ tâm lí học khác như tri giác, giác quan, tình cảm…

Không nói đến những người thuộc trường phái tâm lí học phân tích của Jung thừa nhận mà các tác giả khác trong đó có nhiều người là những học giả nổi tiếng như Arnold J.Toynbee cũng thừa nhận thuật ngữ này. Trong khi nghiên cứu về bản những vấn đề bất bình đẳng văn hoá trong rất nhiều nền xã hội hiện tại, Toynbee cảm thấy những giải thích khoa học của thế kỉ XIX là vô ích. ông đã hướng tới Jung khi viết:

“Sự thất bại của chúng… đã thúc đẩy tôi quay sang huyền thoại. Tôi thực hiện sự chuyển hướng này một cách hơi tự ý thức và thẹn thùng, dường như nó là một bước lùi kích thích. Tôi sẽ bớt rụt rè hơn… nếu như vào lúc đó tôi biết tới những tác phẩm của C.G. Jung, chúng sẽ cho tôi một đầu mối” (31)

Nhưng những ý kiến trái ngược cũng hết sức phổ biến mà điển hình là một giáo sư quá cố người Đức Henri Frankfort trong việc phê phán tuyên bố về giá trị chung của vô thức tập thể.

“§ối với ông ta [Jung], vô thức không bao giờ là một phần có thể khảo sát được của con người, là nguồn gốc của những tư tưởng sáng tạo. Trong giải thích của Freud, những hình ảnh xuất hiện từ vô thức bị giới hạn bởi những kinh nghiệm một người thì Jung lại khẳng định rằng những hình ảnh đó biểu thị chỉ một phần những nội dung và ngoài ra trong những hoàn cảnh nào đó những biểu tượng và những hình ảnh có thể xuất hiện, mà đối với các nhà lịch sử tôn giáo thì quen thuộc, nhưng đối với bệnh nhân-hay đúng hơn là đối với ý thức của họ-chúng không có ý nghĩa gì… Jung gọi những hình ảnh và con người này-được gán cho là siêu nhiên-là những cổ mẫu và toàn bộ chúng tạo nên vô thức tập thể” (32). Tác giả Frankfort tiếp tục phê phán Jung “các cổ mẫu không có gì là chung cả” (33) và Frankfort trích dẫn tình cảm của một đứa trẻ đối với cha mẹ “bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những cấu trúc xã hội. Trong một xã hội mẫu hệ, nơi người cha là một kẻ xa lạ-hoặc thậm chí như một vị khách-trong ngôi nhà của người mẹ nó và người bác ngoại là chủ của gia đình, những cảm xúc của đứa trẻ đó khác với những đứa trẻ trong một xã hội phụ hệ đa thê và nó cũng khác với một đứa trẻ trong một xã hội phụ hệ một vợ một chồng” (34)

Đáp lại điều này, nhìn chung Jung có xu hướng tìm kiếm những bằng chứng thực nghiệm mà như đã nói, ông không tìm thấy được trong thời của ông. Tuy nhiên, dù thận trọng khi cho rằng “Khi tôi nói về vô thức tập thể, tôi không khẳng định nó như một nguyên lí; tôi chỉ đưa ra một cái tên đối với tất cả những gì thực tế có thể quan sát được…” (35) ông vẫn khẳng định “… Đối với tôi sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi coi tâm thần con người chỉ thuần tuý là những vấn đề cá nhân và giải thích chúng hoàn toàn từ quan điểm cá nhân. Một cách giải thích như vậy chỉ có thể được áp dụng đối với những cá nhân trong những công việc hay mối liên hệ bình thường hàng ngày của họ” (36)

Nhìn chung trong thời Jung còn sống, ông bị phê phán bởi rất nhiều người xung quanh thuật ngữ này mà trường hợp của tác giả Frankfort chỉ là một trường hợp điển hình, cũng như những quan điểm ủng hộ ông của Toynbee chỉ là một tiếng nói ít ỏi từ các học giả. Những tranh luận hậu Jung (sau khi ông mất năm 1961) vẫn tiếp tục còn duy trì tuy không còn mạnh mẽ như trước. Một ví dụ tiêu biểu gần đây của sự phê phán khái niệm vô thức tập thể xuất phát từ Richard Noll, một nhà tâm lí học phân tích li khai trong những cuốn sách The Jung Cult: Origins of a charismastic movement(1994) và The Aryan Christ: The Secret Life of Car Jung (1997) và các bài viết của ông về vô thức tập thể đăng trên các tạp chí hay website. Trong bài viết Tại sao khái niệm vô thức tập thể của và cổ mẫu của Jung không có giá trị khoa học, Noll đã chỉ ra những điểm thiếu thuyết phục trong những lập luận của Jung về sự tồn tại của vô thức tập thể khi cho rằng:

1. Jung đã bỏ qua những giả thuyết có tính thay thế khi giải thích về những hiện tượng thuộc về vô thức tập thể (37)

2. Jung không đưa ra được những định nghĩa có tính thao tác (operational definitions) với vô thức tập thể và cổ mẫu để “những người không tin” có thể kiểm chứng được (38)

Lập luận của Noll rất sắc bén tuy nhiên các nhà tâm lí học phân tích khác như đã phê phán quan niệm này, đặc biệt là Anthony Steven đã đáp lại bằng cách phê phán sự cố tình diễn giải sai các khái niệm và thuật ngữ do Jung đề xuất, đặc biệt là vô thức tập thể và cổ mẫu cũng như những yếu tố chủ quan trong những nhận định khác của Jung trong một bài viết đăng trên Tạp chí Tâm lí học phân tích, trong dó Steven đã chứng minh được cổ mẫu và do đó là vô thức tập thể có thể được kiểm chứng trên nền tảng sinh học.

“Nhiều nhà tâm lí học phát triển và tâm thần học ở cả Anh và Mỹ đã phát hiện và tuyên bố sự hiện diện của những khuynh hướng tâm lí-thần kinh không thể phân biệt được khỏi các cổ mẫu. Paul Gilbert (1989) nói tới chúng như là ‘những hình thức phản ứng tâm sinh học’, Russell Gardner (1989), coi chúng như những ‘chương trình tổng thể’ trong khi Brant Wenegrat (1984) đã sử dụng thuật ngữ ‘những chiến lược phản ứng được truyền phát bằng di truyền’. David Buss (1995) nói tới chúng là ‘những cơ chế tâm lí phát triển’ và Randolph Nesse (1987) là ‘những khuyn hướng được chuẩn bị trước’….” (39)

Nhìn chung, xoay quanh khái niệm vô thức tập thể này (và cổ mẫu), sự tranh luận ngày nay tập trung chủ yếu vào tính có thể kiểm chứng bằng thực nghiệm và nguồn gốc sinh học của nó mà Noll và Steven chỉ là hai nhà khoa học đối lập nhau trong cách nhìn nhận và giải thích về vô thức tập thể. Và có thể tạm kết luận về sự tranh luận về thuật ngữ này của Jung bằng cách cho rằng trong các khoa học xã hội, những vấn đề mới mẻ, đặc biệt là những khái niệm và thuật ngữ mới mẻ luôn là đối tượng của sự tranh luận liên tục của các nhà khoa học.

————————————–

Chú thích:

1.     C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.250
2.     C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.155
3.     E.A. Bennet, Jung đã thực sự nói gì, Nxb Văn hoá thông tin, 2002, tr.80
4.     M.Stein, Jung’s Map of the Soul, Open Court, 1997, tr.88
5.     C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.42
6.     C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.4
7.     Steven Walker, Jung and the Jungians on Myth, Sage, 1995, tr.10
8.     Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.14
9.     Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.67
10.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.67
11. Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.68
12. Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.68
13. C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.32
14. C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.194
15.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.6
16.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.6
17.  C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.227
18.  C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.71
19.  C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.201
20.   Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.7
21.  C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.336
22.  C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.209
23.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.8
24.  C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.208
25.  C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.209
26.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.64
27.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.64
28.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.64-65
29.  Daryl Sharp, Jung Lexicon, 1991, Inner City Books, 1991, tr.65
30.  C.G. Jung, Colleted Works 7, Princeton University Press, 1997, tr.238
31. E.A. Bennet, Jung đã thực sự nói gì, Nxb Văn hoá thông tin, 2002, tr.88-89
32.  E.A. Bennet, Jung đã thực sự nói gì, Nxb Văn hoá thông tin, 2002, tr.75
33.  E.A. Bennet, Jung đã thực sự nói gì, Nxb Văn hoá thông tin, 2002, tr.75
34.  E.A. Bennet, Jung đã thực sự nói gì, Nxb Văn hoá thông tin, 2002, tr.75-76
35.  E.A. Bennet, Jung đã thực sự nói gì, Nxb Văn hoá thông tin, 2002, tr.86
36.  E.A. Bennet, Jung đã thực sự nói gì, Nxb Văn hoá thông tin, 2002, tr.73
37.  Richard Noll, Why Jung’s concept of the collective unconscious and arrchetypes have no scientific validity, 1999, tr.1
38.  Richard Noll, Why Jung’s concept of the collective unconscious and arrchetypes have no scientific validity, 1999, tr.3.
39.  Anthony Steven, A Critical Review of Noll’s books, Journal of Analytical Psychology, 1997, 42, tr.67

(st)

Share:

Lưu trữ Blog

Translate