Bí ẩn nhà khoa học "điên"


Nikola Tesla là nhà khoa học người Mỹ gốc Serbia nổi tiếng thế kỷ 19 với hàng loạt phát minh quan trọng. Tính cách cổ quái khiến ông bị cô lập trong giới khoa học lúc bấy giờ, và bị những người cùng thời coi như một kẻ bác học điên khùng.

Vào giai đoạn Thế chiến II đang leo thang tới đỉnh điểm, Tesla tuyên bố đã phát minh ra một vũ khí với cái tên “tia hủy diệt”. 
Thế nhưng, nhà khoa học đột ngột qua đời vào tháng 1-1943, cùng với đó là sự biến mất hoàn toàn tài sản cũng như tài liệu nghiên cứu. Cho đến nay, điều gì xảy đến với Tesla cùng những công trình phát minh của ông vẫn là một ẩn số, khơi gợi đủ mọi loại thuyết âm mưu.

Tài liệu biến mất
Nikola Tesla là một nhà khoa học lỗi lạc của thế giới, nhưng lại có phần  kỳ quái và… lập dị. Ông là cha đẻ của hàng loạt những ý tưởng khó tin, điên rồ khiến giới khoa học xa lánh và cho rằng ông bị điên.
Thế nhưng, chính những phát minh đột phá đã tạo nên nhiều cuộc cách mạng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ liên quan đến sự truyền tải và ứng dụng của dòng điện. Tesla cũng có công rất lớn trong việc sáng chế, phát triển động cơ điện xoay chiều và vô tuyến điện, góp phần thay đổi hoàn toàn lĩnh vực điện và từ trường trong cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20. 
Những ý tưởng phát minh tuyệt vời của Nikola Tesla thực sự đã đi trước thời đại, hướng tới hòa bình thế giới thông qua tiếp cận nguồn năng lượng tự do.
Một trong những thiết kế nổi tiếng nhất của Tesla chính là “tia hủy diệt”, được lên ý tưởng nhằm phóng ra một chùm tia đặc biệt có tác dụng chặn đứng mọi hành động tham chiến, thay vì phải nhờ đến sự can thiệp của các phương tiện và vũ khí khác, từ đó chặn đứng nguy cơ chiến tranh.

Bên cạnh đó, Tesla từng nghĩ rằng ông có thể thay đổi từ trường trái đất tại tầng điện li để tạo ra các sóng khí quyển cực mạnh có khả năng kiểm soát thời tiết nhằm tạo sự phì nhiêu cho đất đai và tránh được các hiện tượng thời tiết cực đoan. Chính vì sự độc đáo mà mọi tài liệu nghiên cứu của Nikola Tesla được cả Liên Xô (cũ) lẫn Đức quốc xã thèm muốn vô cùng.
Sau khi Nikola Tesla được phát hiện đã qua đời tại một căn phòng khách sạn ở New York vào tháng 1-1943, bi kịch bắt đầu khi rất nhiều tài liệu nghiên cứu của Tesla đã... không cánh mà bay. Gia đình của Nikola Tesla cho biết, trước khi tiếp cận được tài sản của ông thì đã có một tổ chức giấu tên lấy đi một lượng không nhỏ giấy tờ cá nhân và tài liệu liên quan.
Một số ý kiến cho rằng, chính các nhà khoa học Liên Xô (cũ) đã tận dụng cơ hội tiếp cận và nghiên cứu lại những công trình của Nikola Tesla. Nghi vấn dồn về phía động cơ phản trọng lực của các nhà khoa học Nga vì có tin đồn thiết kế giống đến 99% so với một bản thảo nghiên cứu đã thất lạc của Tesla. Nhiều nhà lý thuyết âm mưu cũng cho rằng “tia hủy diệt” đứng sau vụ nổ Tunguska (30-7-1908).
Thuyết âm mưu khác hướng đến lực lượng tình báo của Đức Quốc xã, khi nhiều khả năng họ cũng đã nắm trong tay không ít tài liệu nghiên cứu của Tesla vài năm trước khi ông qua đời. Nhiều ý kiến tin rằng, chính những tài liệu này giúp Đức Quốc xã chế tạo ra những vũ khí vượt trội trước quân Đồng minh.
Thế nhưng, đối tượng tình nghi lớn nhất phía sau sự biến mất hàng loạt nghiên cứu trong hồ sơ Tesla lại chính là Mỹ. Khi Tesla qua đời, ông để lại tài sản cho cháu trai Sava Kosanovic, đại sứ Nam Tư tại Mỹ.
Lúc bấy giờ, Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) lo sợ Kosanovic đang cố nắm giữ công nghệ của Tesla và sử dụng nó làm vũ khí để chống lại Mỹ. Vì vậy, rất có thể FBI đã “đi trước nhiều bước” để che giấu hoàn toàn khỏi tầm mắt công chúng.

Âm thầm toan tính
Nikola Tesla vốn là người Mỹ, lại nắm trong tay hàng loạt ý tưởng sáng chế nguy hiểm, thế nên Washington có vẻ rất chú ý đến kho tàng nghiên cứu của ông. Xuất hiện nhiều tin đồn Chính phủ Mỹ, với vỏ bọc “bảo vệ bí mật an ninh quốc gia”, đang âm thầm săn lùng các bản thảo của ông nhằm tạo ra những loại siêu vũ khí.
Dường như, ít nhất hai trong những ý tưởng phát minh của Tesla (là cỗ máy rung và kiểm soát thời tiết) đã được Chính phủ Mỹ khai thác triệt để, tạo “đế chế ngầm” với mục đích thao túng trái đất và con người. Bằng chứng là sự thay đổi khí hậu, thời tiết cực đoan ngày một nhiều hiện nay.


Với công cụ là HAARP, rất có thể Mỹ đã lên kế hoạch “mượn” ý tưởng của Nikola Tesla để kiểm soát rồi thống trị toàn nhân loại trong tương lai. Đây là chương trình nghiên cứu hoạt động cực quang cao tần tối mật, được liệt vào hàng “an ninh quốc gia”, hoàn toàn bí mật đối với giới khoa học trong và ngoài nước. Với nhiều loại siêu vũ khí, HAARP có thể phá vỡ hệ thống radar của hàng không và hàng hải, làm hỏng toàn bộ thiết bị của các vệ tinh. 
Dưới sức ép của các cáo buộc, Mỹ quyết định đóng cửa vĩnh viễn HAARP. Tuy nhiên, không ai biết việc khai tử HAARP có phải là chiêu bài nhằm lắng dư luận để Mỹ rảnh rang triển khai tiếp các dự án bí mật khác hay không.
Sau nhiều năm che đậy, dưới sự thông qua của Đạo luật Tự do thông tin năm 2016, FBI cuối cùng đã buộc phải công khai 250 trang trong tập tài liệu của Tesla. Điều này cho thấy, mọi nghi ngờ về việc Washington “mượn” nghiên cứu của Nikola Tesla là hoàn toàn có căn cứ.
Nhưng mặc dù đã được xuất bản công khai, vẫn còn rất nhiều câu hỏi chưa được trả lời và vẫn còn rất nhiều tài liệu được cho là đã biến mất khỏi tập hồ sơ này. Bởi lẽ, trong khi FBI đã xác nhận có 80 tập tài liệu Tesla để lại, thì chỉ có 60 tập tài liệu được đưa trở về quê hương của ông. Vậy 20 tập còn lại, hiện đang ở đâu?
Chưa hết, có bằng chứng cho thấy Phó Tổng thống Henry Wallace đã thảo luận cùng cố vấn của ông về nghiên cứu của Tesla, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sự truyền dẫn không dây giữa điện năng và “tia hủy diệt”. 
Cùng lúc đó, vai trò của Vannevar Bush, người mà Tổng thống Franklin Roosevelt chỉ điểm đứng đầu dự án Manhattan chuyên nghiên cứu đánh giá các tài liệu của Tesla, cũng được làm sáng tỏ.
Rõ ràng, “tia hủy diệt” đã trở thành nguồn cảm hứng thúc đẩy các sáng kiến chiến lược phòng thủ của Mỹ. Và nếu Washington vẫn đang sử dụng ý tưởng của Tesla để phát triển công nghệ thì việc một số nghiên cứu của nhà phát minh nổi tiếng này vẫn mất tích là vô cùng dễ hiểu.

Người đến từ... vũ trụ
Từ bấy lâu nay, FBI đã và đang kiểm soát Nikola Tesla cũng như các nghiên cứu của chính ông. Tài liệu giải mật của FBI nhận định, Tesla rất có thể là... người sao Kim, được gửi đến trái đất trong một gia đình họ Tesla từ năm 1856, tại một tỉnh miền núi thuộc nước cộng hòa Nam Tư cũ.
Một bức thư mật của FBI mới được công bố đề cập đến việc Tesla đã phát minh thành công một thiết bị truyền thông liên lạc liên hành tinh. Cỗ máy được đưa vào hoạt động, giúp ông cùng các kỹ sư liên lạc thường xuyên với nhiều phi thuyền ngoài không gian, cũng như đón người ngoài hành tinh đến thăm.
FBI cũng tung tin rằng, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhà khoa học Nikola Tesla báo cáo đã liên lạc với những người Pleiadeans và đồng minh trên sao Kim. Pleiadians được cho là có nguồn gốc từ hành tinh khác, là một chủng loài nhân hậu, luôn muốn thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng, có hình dạng giống con người và đã đến trái đất từ lâu.


Chính họ đã chia sẻ cho Tesla các công nghệ dẫn đến phát minh của ông về dòng điện xoay chiều - khởi nguồn của hàng chục thiết bị điện tử phổ biến hiện nay, hay hàng trăm công cụ được sử dụng trong công nghệ hàng không vũ trụ và điện từ.
Thân thế của Tesla ngày càng bí ẩn khi FBI cho biết hiện đang nắm giữ sáng chế liên quan đến UFO (vật thể bay không xác định) sau khi ông qua đời. Bên cạnh đó, những nghi ngờ xung quanh phát minh “điên khùng” kính Teslascope có khả năng giao tiếp với người ngoài hành tinh và các nền văn minh ngoài trái đất cũng khiến dư luận tò mò.
Theo FBI, Tesla hy vọng chứng minh sự tồn tại của sự sống trên sao Hỏa nhờ sử dụng chiếc kính Teslascope, khi nghe thấy nhiều âm thanh khác nhau không giống bất cứ thứ gì từng biết và những tiếng click tương tự bộ mã Morse.
Dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có một ai xác thực những công bố của FBI về các tài liệu họ đang nắm giữ liên quan đến các nghiên cứu không tưởng và thân phận kỳ lạ của Tesla. Ngay cả nhiều tài liệu của Tesla hiện tại vẫn bị xem là viễn tưởng bởi sự bí ẩn của chúng. 
Có lẽ, sự thật đang ẩn giấu trong phần còn lại của những bản thảo bị đánh mất, và theo nhiều người bi quan thì phần thất lạc này sẽ không bao giờ được thấy ánh sáng ban ngày...

(St)
Share:

Karl Marx là ai? | Phim tài liệu nước ngoài DW


via IFTTT
Share:

Vatican – con bạch tuộc núp dưới bóng Chúa Trời

Dưới con mắt của các nhà quan sát quốc tế hiện nay thì Vatican là đầu não của chủ nghĩa đế quốc tinh thần (Spiritual Imperialism) giống như con bạch tuộc có nhiều vòi. Mỗi giáo hội Công Giáo tại mỗi quốc gia là một cái vòi của nó.
 Ký giả Paul Hofman của New York Times, tờ nhật báo lớn nhất thế giới, đã định cư tại Rome từ năm 1938 và làm việc tại đây liên tục trong 35 năm liền với tư cách ký giả chuyên nghiệp kiêm điệp viên quốc tế. Ông trở thành “bạn thân” của hầu hết các giới chức cao cấp tại Vatican qua các triều đại giáo hoàng từ Pio XII (38-39) cho đến đương kim giáo hoàng John Paul II. Giới ký giả quốc tế gọi ông là “The Vatican Watcher” hoặc “The Vatican Insider” có nghĩa là điệp viên nằm vùng tại Vatican . Ông viết nhiều tác phẩm giá trị về Vatican như “Rome: The Sweet Temptuous Life”, “O Vatican, A Slight Wicked View of The Holy See” và tác phẩm độc đáo mang tựa đề La Tinh “Octopus Dei” có nghĩa là “Con Bạch Tuộc của Đức Chúa Trời”.
Qua các tác phẩm của ông, người đọc được biết rất nhiều chuyện thuộc loại thâm cung bí sử của Vatican . Ở đây chúng tôi xin tổng hợp các tác phẩm trên của ông và chỉ thuật lại mấy nét điển hình về quốc gia đô thị (State City ) có một không hai này của thế giới.
– Về phương diện thần quyền, Vatican là thủ đô của một đế quốc tinh thần bao gồm gần một tỷ thần dân là các tín đồ Công Giáo La Mã rải rác khắp năm châu. Giáo hoàng là hoàng đế, các hồng y là hoàng tử, 4000 giám mục là các cán bộ cao cấp, 400.000 cán bộ hạ tầng cơ sở được mệnh danh là “linh mục”, tương đương với cấp “manager” trong các đại công ty. Ngoài ra, Vatican còn có một đội ngũ gồm 1 triệu nữ tu, phần đông hành nghề dạy học, y tá và sản xuất các mặt hàng tiểu công nghệ.
– Về phương diện thế quyền, Vatican là một tiểu quốc, giáo hoàng là quốc trưởng với 450 cư dân, tuy nhiên chỉ có 280 cư dân mang quốc tịch Vatican mà thôi. Vatican là lãnh thổ quốc gia nhỏ nhất thế giới, diện tích vỏn vẹn 44 hectares (bằng 1/6 Monaco) nhưng có quốc kỳ, quốc ca riêng biệt và có liên hệ ngoại giao trên cấp bậc đại sứ với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tổng số các nhân viên phục vụ thường xuyên cho Vatican gồm có 4500 người sống rải rác chung quanh Rome (quét đường, cắt cỏ, xây cất sửa chữa lầu đài dinh thự…). Vatican cung cấp lợi tức cho 3 triệu dân Rome qua ngành du lịch của khách hành hương, ngành sản xuất các ảnh tượng và các dụng cụ làm lễ của tu sĩ. Nếu vì lý do nào đó Vatican bị sụp đổ, hậu quả trước mắt là 3 triệu dân Rome sẽ bị thất nghiệp!
Vatican là sở hữu chủ của một tài sản khổng lồ lên tới nhiều ngàn tỷ đô la. Tại Ý, Vatican là địa chủ lớn nhất. Cho nên Vatican khó có thể chui lọt qua cổng Thiên Đàng vì Chúa đã phán “Kẻ giàu vào nước Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim”. Vatican City có 50 cung điện gồm 1000 phòng có máy lạnh, 977 cầu thang, 12.000 cửa sổ, 5 nhà thờ lớn và 11 viện bảo tàng, một tiệm thuốc tây, một ty bưu điện, 2 phi trường, 350 mét đường xe lửa và một đài phát thanh cổ nhất thế giới.
Mỗi hồng y được cấp một xe limousine màu xanh đậm, mỗi tháng được lãnh pay-check 1500 đô la và được chính phủ Ý miễn các thứ thuế.
Giáo hoàng có phi cơ phản lực riêng để đi xa. Muốn đi gần, ngài chỉ cần nhấc phone là không lực Ý phái trực thăng tới liền.
Văn phòng làm việc của giáo hoàng ngày nay là lâu đài Apostolic (Lâu Đài Tông Đồ) được xây cách đây một ngàn năm. Trong những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Kitô Giáo không có giáo hoàng và chính thánh Phêrô cũng chẳng được làm giáo hòang ngày nào. Ngài có vợ có con và rất nghèo, không có nỗi một chỉ vàng làm nhẫn cho tín đồ hôn tay. Tính ngài vốn bình dân vì ngài cả đời chỉ chuyên đánh cá trên hồ Galilee nên không muốn mọi người cúi chào mình. Sách Tông Đồ Công Vụ thuật chuyện: Một hôm Phêrô đến nhà Cornelius, chủ nhà quì mọp xuống tỏ vẻ kính trọng. Phêrô nâng chủ nhà dậy và nói: “Hãy đứng dậy, tôi chỉ là người thường thôi” (Stand up, I myself am a man – Act 10: 25-26).
Công trường Thánh Phêrô là một công trường quốc tế. Đây là nơi hành hương mà hàng tỷ người mong ước được đến đó một lần trong đời chỉ để quì gối xuống sân đá đón nhận phép lành tòa thánh của giáo hoàng giơ tay lên ban xuống từ khung cửa sổ tòa lâu đài Apostolic! Đây là những show được trình diễn quanh năm. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có thể có được những show độc đáo và thường xuyên như vậy. Ký giả Paul Hofman cho biết những show này đều được dàn dựng để trình diễn (tailor-made show for video) nhằm mục đích làm nổi bật vai trò của “Người Khổng Lồ Ngồi Sau Cửa Sổ!”. Cũng từ cái cửa sổ này, giáo hoàng giống như con rùa lâu lâu lại thò đầu ra để công bố tín điều hoặc ban huấn thị cho toàn thể Hội Thánh. Từ hơn ngàn năm qua, các giáo hoàng đều tự cho mình là kẻ duy nhất trên hoàn cầu có thẩm quyền xác định hay phủ nhận mọi giá trị tinh thần tối hậu (Pope is the only one on earth to proclaim ultimate moral values).
Nhưng tất cả đều chỉ là những màn kịch. Người thực sự cai trị giáo hội không phải là giáo hoàng mà là CURIA tức “Văn phòng Điều khiển Giáo hội” gồm toàn những chuyên viên thuộc mọi lãnh vực. Những người điều khiển CURIA lại là những người dấu mặt (faceless) thuộc siêu quyền lực.
Các thành viên của CURIA đều là đàn ông. Vatican không chấp nhận cho đàn bà làm linh mục hoăc cho giữ một chức vụ nào trong Tòa Thánh. Lý do rất chính đáng là Chúa ngày xưa cũng chỉ chọn các thánh Tông đồ đều là đàn ông cả. Thật vậy, chẳng có một việc nào quan trọng của Chúa và của Hội Thánh có thể tin cậy mà giao cho cái đám đàn bà vô tích sự được !.
(Nhân tiện đang đề cập đến truyền thống kỳ thị phụ nữ của đạo Công giáo, tôi nhớ đến một số tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi nên xin phép quí độc giả bàn thêm ở đây mấy điều quan trọng là thậm chí ở trên trời, Ba Ngôi Thiên Chúa của đạo Ki tô (Christian God = Trinity God) cũng đều là đàn ông cả : Chúa Cha mũi lõ mắt xanh râu xồm, vừa tàn bạo vừa lắm điều và thường hay dùng ngón tay chỉ chỏ. Chúa Con Ngôi Hai nửa người nửa thần linh, mặt mũi đẹp giai trung bình nhưng nhờ khá to con khoẻ mạnh khéo nói nên được quý bà quý cô ngày xưa đi theo khá đông. Ngôi Hai Thiên Chúa cao 1 mét 82, nặng 79 kí lô. Các chi tiết này được ghi nhận trên giấy trắng mực đen theo kết quả giảo nghiệm của phái đoàn quốc tế điều tra về Tấm Vải Liệm ở Turin tháng 10 – 1978 . Còn về phần Đức Chúa Thánh Thần là Ông Xã của Đức Mẹ Maria thì cũng chính là Đức Chúa Jesus vì Ba Ngôi cũng là Một Đức Chúa Trời mà chớ!.Ai dám bảo Chúa Jesus không phải là chính Đức Chúa Thánh Thần (Ông Xã của Đức Mẹ) thì kẻ ấy là rối đạo vì nó không tin Chúa Jesus là Thiên Chúa thật. Nó đáng bị đưa lên dàn hỏa mà đền tội ở đời này và còn bị sa hỏa ngục đời đời chẳng cùng.
Kẻ nào không tin Đức Chúa Thánh Thần là con cháu vua David thì tức là kẻ đó đã phủ nhận Chúa Jesus là Đấng Cứu Thế vì Chúa Cứu Thế phải là người thuộc dòng dõi vua David. Kinh Thánh không kể về gia phả của Đức Mẹ mà chỉ kể về gia phả của Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua David, nhờ có chút hạt giống truyền đời của David với bà Bethsabe (mối tình tội lỗi) nên Chúa Giêsu mới được coi là Chúa Cứu Thế đúng như Cựu Ước đã tiên tri. Như vậy Thánh Giuse là cha ruột của Chúa Giêsu và Đức Mẹ không thể là bạn thanh sạch của Người. Kinh Thánh không có chỗ nào xác định ông Joachim và bà Anna , tức cha mẹ của Mẹ Maria và là ông bà ngoại của Jesus, thuộc dòng dõi vua David cả. Ai biết xin chỉ dùm, tôi xin hậu tạ và cám ơn.
Trở lại với ông ký giả Hofman, theo thống kê thì Vatican có khoảng 900 triệu tín đồ, nhưng trên thực tế số tín đồ Công Giáo La Mã hiện nay thực ra chỉ còn vài trăm triệu thôi. Giáo dân tại các nước giàu có như Mỹ, Anh, Pháp, Đức và các nước có trình độ văn hóa cao đều rất ghét Vatican và khinh bỉ giáo hoàng ra mặt. Chỉ những nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha (Philippines và Việt Nam – Ch. Ng.) trình độ giáo dân hãy còn thấp kém nên vẫn kính sợ giáo hoàng như xưa! Ngày nay, giáo hoàng đi đâu cũng sợ bị phản đối và ám sát nên phải chui vào xe bọc sắt với những tấm kiếng chắn đạn. Thực ra, chính giáo hoàng cũng không còn tin tưởng vào sự che chở quan phòng của Thiên Chúa nữa! Xe chắn đạn của giáo hoàng được gọi là “The Pope Mobile” hiệu Mercedes, kiểu station-wagon, mang bảng số viết tắt là SCV (Stato Citta del Vaticano). Người Pháp chế diễu đọc là “Si Christ Voyait-çà” (Ước gì Chúa Kitô nhìn thấy nó).
Vatican có một bệnh viện cổ nhất thế giới mang tên Gemelli Clinic được xây từ thời Phục Hưng. Năm 1981, Giáo Hoàng John Paul II bị thương trong một vụ ám sát hụt và được đưa vào điều trị tại bệnh viện này. Vì các trang bị quá cũ và không hợp vệ sinh, khiến giáo hoàng suýt được về với Chúa vì bị nhiễm trùng.
Phụ tá công việc cho giáo hoàng là Hội Đồng Hồng Y (The Sacred College) tương đương với thượng nghị viện. Các giám mục muốn trở thành hồng y phải có uy tín tương đương với các người được lãnh giải Nobel. Giám mục nào muốn vận động để được phong lên hồng y phải có khả năng vận động tương đương với các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Các hồng y da trắng nắm hết các chức vụ quan trọng, các hồng y da đen có nhiệm vụ đi tới đi lui ở công trường Thánh Phêrô để du khách quay phim chụp ảnh.
Theo lý thuyết thần học Công giáo, các giáo hoàng là Đại diện của Chúa Kitô tại thế gian (Vicar of Christ) nên chức vụ giáo hoàng là do Thiên Chúa chọn lựa. Trong thực tế, các giáo hoàng cũng chịu chung số phận như các vua chúa thế gian: “càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan!”.
Vatican không phải đã được thành lập từ thuở ban đầu của đạo Kitô. Nó bắt đầu trở thành thủ phủ của giáo hội Công Giáo từ năm 378, tức là 53 năm sau khi Constantine lập ra đạo Công Giáo (năm 325) với giáo hoàng đầu tiên là Demasus. Trước năm 378 không có Giáo Hoàng mà chỉ có chức giám mục (bishop) là cao nhất trong Giáo Hội Ki Tô nguyên thủy (The Early Christianity). Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow California ghi nhận về điều này như sau : Chức Giáo Hoàng tiếng La tinh goi là Pontifex Maximus có nghĩa là Đấng Tối Cao của Hội Thánh (Head of Church) . Sau khi lập đạo Công giáo nguời ta bầu Hoàng Đế Constantine lên làm Giáo Hoàng nhưng Ngài không nhận. Các hoàng đế kế tiếp cũng chẳng có ai chịu nhận chức này. Cho nên khắp nơi của Giáo hội chỉ có chức Giám mục là cao nhất. Trong ba thế kỷ đầu Công nguyên ở La Mã cũng chỉ có giám mục mà thôi (Bishop of Rome ) . Dần dần Giám mục ở Rome dùng mọi thủ đoạn thâu tóm quyền lực chính trị và tăng thêm uy thế. Cuối cùng, vào năm 378, Giám mục ở Rome là Demasus là người đầu tiên được bầu giữ chức Pontifex Maximus đứng đầu Hội Thánh Toàn Cầu từ đó. (Babylon Mystery Religion p. 72)
Vatican cũng chẳng phải là giáo đô thường trực của Giáo hội. Năm 1309, vua Pháp Philip IV tấn công Rome và bắt cóc giáo hoàng đem về giam tại Avignon thuộc tỉnh Provence miền Nam nước Pháp. Trong 68 năm, từ 1309 đến 1377, Avignon trở thành thủ đô chính thức của giáo hội Công Giáo. Các giáo hoàng được bổ nhiệm hay bị truất phế đều do vua Pháp quyết định chứ không do Hội Đồng Hồng Y bầu ra dưới sự soi sáng của Đức Chúa Thánh Thần .
Ngoài các sách của giới ký giả chuyên săn tin tòa thánh, còn có nhiều nhà nghiên cứu sưu tầm sử liệu công phu giúp chúng ta tìm hiểu về các Giáo Hoàng La Mã một cách đầy đủ, không sót một ai. Một trong những sách thuộc loại này thiết tưởng không gì hơn là tác phẩm Giáo Hoàng Bách Khoa Tự Điển (The Pope Encyclopedia của Matthew Bunson, Crown Trade Paperbacks NY-1995). Tác giả đã dầy công sưu tầm tài liệu trực tiếp trong các kệ tủ niên giám của Vatican để hoàn thành tác phẩm này. Theo lịch sử giáo hội Công Giáo La Mã, tổng cộng cả thảy có 263 giáo hoàng (tính đến năm 2001).
Trên phương diện giáo lý Công Giáo, giáo hoàng là vị đại diện của Chúa Kitô và những quyết định của Ngài về các vấn đề tín lý và giáo lý là những điều rất quan trọng cho phần hồn của gần một tỷ tín đồ trên thế giới nên Thiên Chúa không thể để cho Ngài có thể sai lầm. Công đồng Vatican I năm 1870 (Vatican Council of 1870) đã đưa điều này lên thành tín điều được gọi là “Tín điều giáo hoàng bất khả ngộ”* (The dogma of Papal infallibility). Theo nhận định của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow California thì nếu đứng trên phương diện lịch sử khách quan, chúng ta sẽ nhận thấy có nhiều giáo hoàng bất xứng vì họ đã sống hoàn toàn vô đạo đức, thậm chí có nhiều giáo hoàng đã ám hại nhau để cướp ngôi. Hiệp Hội này viết rất xác đáng như sau : “Những sự bất đồng gay gắt giữa các giáo hoàng chắc chắn đã phản bác ý tưởng cho rằng giáo hoàng không thể sai lầm!” (Such sharp disagreement between popes certainly argues against the idea of papal infallibility – Babylon Mystery Religion, p.93).
Cũng theo nhận định của Hiệp Hội này, Vatican là “cái lò chuyên sản xuất các thánh lớn nhất thế giới”. Thuở xa xưa người Babylon đã sản xuất tới 5000 thánh mà cũng không cứu được đế quốc Babylon khỏi bị hủy diệt hoàn toàn (Babylon Mystery Religion p. 24.). Điều khôi hài là ngày nay Vatican suy tôn nhiều vị thánh đã được phong từ xa xưa làm thánh quan thầy (patron) cho nhiều phát minh hiện đại như : St.Cominic quan thầy ngành không gian, St. Matthew quan thầy các chủ nhà băng, St. Fiace quan thầy những người lái taxi, St. John Bosco quan thầy các nhà xuất bản (như Giao Điểm chẳng hạn) , St. Dorothy quan thầy các tiệm bán hoa và áo đám cưới, St. Gemma Galgani quan thầy các chủ tiệm thuốc pharmacy v.. v.. (p.25)
Trở lại với “Giáo Hoàng Bách Khoa Tự điển”, (The Pope Encyclopedia) chúng ta điểm qua tiểu sử của một số giáo hoàng tiêu biểu:
– Baby Pope: John XII. Lên ngôi giáo hoàng năm 18 tuổi, cai trị Hội Thánh Công Giáo 9 năm (955-964).
– Giáo Hoàng Mặt Heo (Bucca Porci): Năm 909, một tu sĩ được bầu lên làm giáo hoàng lấy hiệu là Sergius IV. Trước khi làm giáo hoàng, y tằng tịu với cô gái 15 tuổi tên là Mezozia, sinh ra đứa con trai tên Alberic. Sau khi làm giáo hoàng, y gian díu với rất nhiều đàn bà con gái khác nên được mọi người tặng cho cái danh hiệu là “Giáo Hoàng Mặt Heo” (Bucca Porci). Giáo Hoàng Sergius IV dùng quyền lực của mình đã đưa Alberic lên làm hoàng đế cai trị La Mã. Alberic về sau cũng hoang dâm như cha và có rất nhiều con hoang. Năm 955, bạo chúa Alberic đã ép Vatican phải chấp nhận cho một đứa con hoang của y mới 18 tuổi lên ngôi giáo hoàng. Đó chính là Giáo Hoàng John XII nói trên. Như vậy, trong lịch sử giáo hội La Mã đã có hai ông cháu đều làm giáo hoàng! Cả hai giáo hoàng này đều nổi tiếng về tính dâm dục. Năm 962, dân La Mã nổi lên chống Giáo Hoàng John XII. Giáo hoàng bèn kêu cứu vua nước Đức là Otto the Great mang quân sang Ý đàn áp dân chúng. Cuộc đàn áp hết sức dã man đã tiêu diệt mọi sức chống cự của quần chúng. John XII chẳng những vẫn duy trì được ngôi giáo hoàng mà còn được Otto the Great phong làm hoàng đế La Mã nữa. Tháng 2 năm 964, Otto the Great truất phế John XII để đưa người thân tín của y lên làm giáo hoàng lấy hiệu là Leo VIII. John XII sợ bị giết đã rời bỏ Vatican trốn đi biệt tích.
– Hai Giáo Hoàng XXIII: Trong lịch sử giáo hội Công Giáo có hai giáo hoàng cùng lấy hiệu là John XXIII:
* Người thứ nhất là Baldassare Cossa sinh tại Naples năm 1378. Năm 1410, Cossa được phong chức giáo hoàng. Ít lâu sau người ta phát giác Baldassare Cossa có nhiều vợ và đã đầu độc giáo hoàng tiền nhiệm là Alexander để cướp ngôi. Do đó, hội đồng hồng y họp tại Constance năm 1414 đã xác định John XXIII (tức Cossa) là giáo hoàng giả (antipope) và truất phế y. Cuối cùng John XIII giả bị giáng chức xuống làm giám mục ở Tusculum, chết tại Florence năm 1419.
* Người thứ hai lấy hiệu John XIII là hồng y Roncalli, lên ngôi giáo hoàng năm 1953, qua đời năm 1963. Đó chính là vị giáo hoàng đã khai sinh Công Đồng Vatican II. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm một số chuyện về Ngài trong chương sau.
– Giáo hoàng kiêm bạo chúa La Mã: Alexander VI (1492-1503 ) tên thật là Rodrigo Borgia, đã không do hội đồng hồng y bầu lên mà do cậu ruột là Giáo Hoàng Callistus III truyền ngôi cho. Lúc lên làm giáo hoàng, Rodrigo đã có vợ là nữ quí tộc Vannozza và có 4 con với bà này. Các con của y đều đã trưởng thành. Giáo Hoàng Alexander VI phong cho đứa con trai thứ hai chính thức của y và 5 đứa con hoang chức vụ hồng y. Sau khi ở ngôi giáo hoàng được 5 năm, tức vào năm 1497, y muốn truyền ngôi giáo hoàng cho đứa con trai lớn tên là Juan. Phe chống đối đã bí mật giết chết Juan và ném xác xuống sông Tiber . Giáo Hoàng Alexander VI nghi cho phe quí tộc đã ám hại con mình nên đã khởi động một cuộc khủng bố đẫm máu chống giới quí tộc La Mã.
Trong 11 năm làm giáo hoàng kiêm bạo chúa La Mã, Alexander VI đã gây quá nhiều thù oán nên đã bị đầu độc chết ngày 18.8.1503. Tuy nhiên, giáo hoàng này đã hoàn thành một công trình kiến trúc để đời, đó chính là Đền Thánh Phêrô tại Vatican ngày nay. Trước khi chết vào năm 1503, Alexander VI đã coi thế giới như của riêng mình nên chia ra làm hai : Một nửa thế giới phương Tây giao cho Tây Ban Nha độc quyền đi chinh phục. Một nửa thế giới về phương Đông, trong đó có Việt Nam, do Bồ Đào Nha nắm độc quyền khai thác. Đầu thế kỷ 16 Phanxico Xavie là người Tây Ban Nha và đầu thế kỷ 17 cố đạo Đắc Lộ là người Pháp muốn giảng đạo tại Á châu đều phải xin phép Hoàng gia Bồ Đào Nha.
– Giáo hoàng bị Napoléon cách chức: Năm 1808, Napoléon mang đại quân đánh chiếm Rome và Vatican, bắt Giáo Hoàng Pio VIII giải về Paris tống giam. Sau khi Napoléon bị bại trận tại Waterloo, Giáo Hoàng Pio VIII được phóng thích nhưng chỉ được giữ chức hồng y. Cuối cùng y bị đầu độc chết năm 1830.
– Các giáo hòang của chủ nghĩa thực dân và bạo lực:
* Leo XIII là một học giả uyên thâm cai trị giáo hội 25 năm (1878-1903). Trong thời đại của Ngài, chủ nghĩa thực dân Âu Châu đạt tới đỉnh cao của công cuộc xâm chiếm thuộc địa rộng khắp thế giới. Leo XIII đã khôn khéo lợi dụng sự kiện các nước thực dân, hầu hết đều là những nước Công giáo ở Âu Châu, để dựa vào đó phát triển thêm rất nhiều địa phận Công giáo ở Á Châu, nhất là tại Ấn Độ và Phi Châu. Riêng tại Mỹ Châu , Vatican có thêm 28 giáo phận mới.
Leo XIII là người đầu tiên lên án chủ nghĩa Cộng Sản khi chủ nghĩa này mới nhú lên ở Âu Châu. Ngài cũng là người đầu tiên xây dựng các Phong Trào Thanh Niên Công Giáo Vũ Trang tạo thành bạo lực phản công để chống lại các lực lượng chống Công Giáo. Điển hình là các Lực Lượng Thanh Niên Công Giáo Đức đã thành công trong việc đấu tranh chống lại Phong Trào Bài Công Giáo do Thủ Tướng Bismark chủ trương vào cuối thế kỷ 19. Kết quả Thủ Tướng Bismark đã bị buộc phải từ chức ngày 18.3.1890. Tuy nhiên, ác giả ác báo, GH Leo XIII đã bị bí mật đầu độc chết sau đó !.
Noi gương Leo XIII là Pio X (1903-1914). Ngài cương quyết chống lại mọi đề nghị canh tân giáo hội và chủ trương chống lại mọi kẻ thù của giáo hội bằng bạo lực. Pio X thành lập tổ chức mệnh danh là “Công Giáo Hành Động” (Catholic Action) và võ trang cho những tổ chức này thành những lực lượng quân sự. Một ngày trước khi Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, tức 20.8.1914. Pio X bị đầu độc chết. Ngài được Pio XII phong thánh ngày 29.5.1954.
– Giáo Hoàng Jean Paul II và cái chết mờ ám của Giáo Hoàng Jean Paul I tiền nhiệm.
Ngoài cuốn tự điển Bách Khoa về Giáo Hoàng, hiện nay có rất nhiều sách best-sellers nói về Vatican và giáo hoàng. Trong số đó phải kể đến tác phẩm IN GOD’S NAME (Nhân Danh Chúa) của David Yallop, Bantam Books, NY xuất bản năm 1984.
John Paul I được bầu làm giáo hoàng vào tháng 8 năm 1978 lúc Ngài 65 tuổi. Ngài là vị giáo hoàng đần tiên lấy danh hiệu bằng hai tên thánh John Paul. Ngài luôn luôn tươi cười vui vẻ nên được giới ký giả quốc tế tặng danh hiệu là Đức Giáo Hoàng Di Lặc Công Giáo (Smiling Buddha Pope). Ngài bị đầu độc chết sau khi uống một ly cà phê vào lúc 11 giờ tối 28.9.1978. Người mưu sát Ngài là Hồng Y Jean Villot, quản nhiệm địa phận Lyon (Pháp), lúc đó làm Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh (tương đương thủ tướng). Hồng Y Jean Villot là hội viên Tam Điểm (Free Masonry) bí danh Jeanni, được kết nạp tại Zurich ngày 6.8.1976, đứng đầu “Đại Tổ Vatican ” (The Great Vatican Lodge). Trước khi gia nhập Tam Điểm, Hồng Y Jean Villot đã nắm trọn guồng máy hành chánh của triều đình Vatican từ năm 1962. Dưới quyền Jean Villot có 121 cán bộ nằm vùng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các cơ quan của Tòa Thánh. Tháng 3.1979, Jean Villot qua đời. Đương kim Giáo Hoàng Jean Paul II bổ nhiệm đàn em thân tín của Jean Villot, một trong số 121 cán bộ Tam Điểm, là Hồng Y Casaroli đảm nhiệm chức vụ Quốc Vụ Khanh từ tháng 3.1979. Tất nhiên, GH Jean Paul II biết hết mọi chuyện bí mật của Jean Villot và phải là người trong nhóm bí mật của siêu quyền lực dấu mặt mới có thể được cất nhắc lên ngôi vị giáo hoàng như hiện nay.
– Nữ Giáo Hoàng Joan. Tiểu sử của nữ giáo hoàng này đã trở thành một huyền thoại rất nổi tiếng tại các nước Âu Châu trong hơn ngàn năm qua. Bà là một phụ nữ lanh lợi tài hoa, ham mê hoạt động và có tham vọng khuynh đảo thế giới. Từ lúc còn nhỏ, bà cải trang thành con trai và xin vào tu tại dòng tu nam giới. Sau bà trở thành một tu sĩ rất nổi danh về sự thông thái và tài hùng biện. Năm 855, bà được hội đồng hồng y bầu lên ngôi giáo hoàng. Sau khi cai trị hội thánh được hai năm bảy tháng, giáo hoàng hạ sinh một đứa con trong đám rước kiệu từ đền Thánh Phêrô đến Lateran. Do đó giáo hoàng bị phát giác là đàn bà giả trai. Ngay lập tức nữ giáo hoàng bị dân chúng nổi giận lột hết quần áo và bị đưa tới công trường Colosseum để dân chúng ném đá đến chết. Tại kho văn khố của Vatican hiện còn lưu trữ nhiều bài diễn văn nổi tiếng của Nữ Giáo Hoàng Joan. Bà là người đầu tiên tuyên bố “Giáo Hoàng là người thừa kế của Thánh Phêrô” (The Pope is the successor of St. Peter). Tiểu sử của bà được thuật lại đầy đủ trong các sách của các sử gia Petrarch và Boccacio. Tự Điển Bách Khoa Công Giáo (The Catholic Encyclopedia) xác nhận: “Trong các thế kỷ 14 và 15, nữ giáo hoàng được coi là một nhân vật lịch sử, sự hiện diện của bà là điều không thể ai có thể nghi ngờ” (In the fourteenth and fifteenth centuries, this popes was already counted as a historical personage, whose existence no one doubted).
– Các giáo hoàng dâm loạn. Tác phẩm Babylon Mystery Religion của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow (California) xuất bản năm 1966, tái bản năm 1990, nơi các trang 88-90 có liệt kê nhiều tên giáo hoàng dâm loạn đến mức không thể tưởng tượng được!
* Trong thế kỷ 15, tại Công Đồng Constance (Council of Constance ), giáo hội Công Giáo có tới 3 giáo hoàng cùng một lúc. Các giáo hoàng này chửi rủa nhau và gọi nhau là quỉ hoặc là kẻ chống Chúa Kitô (antichrist), kẻ thù của Chúa và loài người… Đặc biệt họ đã tố cáo nhau về các tội dâm loạn, ngoại tình, loạn luân, đồng tính luyến ái (sodomy).
Giáo Hoàng John XXIII (1410-1415) bị hàng chục giám mục và rất nhiều nhân chứng tố cáo đã xâm phạm tiết hạnh ba trăm nữ tu và có một cung viện tại Bologne chứa trên hai trăm cô gái. Ngoài ra, John XXIII còn bị Công Đồng kết án về 54 tội đại hình khác!
Hồ sơ lưu trữ tại Vatican còn ghi nhận John XXIII thông dâm với em dâu, phá trinh nhiều cô gái, dụ dỗ nhiều phụ nữ có chồng và phạm đủ loại tội dâm dục. Công Đồng gọi y là “con quỉ hóa thân” (The Devil Incarnate – Sacrorum Consilioritum Vol.27, p. 663).
– Pio II (1458-1464) và Paul II (1464-1471) là hai giáo hoàng kế tiếp nhau đều có cung viện (harems) chứa rất nhiều cung nữ.
– Giáo Hoàng Innocent VIII (1484-1492) thông dâm với nhiều phụ nữ và có 16 đứa con. Nhiều con của y được tổ chức đám cưới linh đình ngay tại Vatican (The Catholic Encyclopedia Vol.8, p.19).
– Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) có vợ 5 con lúc còn làm hồng y. Sau khi lên ngôi giáo hoàng, y loạn luân với hai em gái và với con gái ruột tên Lucretta. Y có một đứa con với con gái ruột của mình! (History of the Reformation D’Aubigne P.11). Ngày 31.10.1501, Alexander VI tổ chức dạ hội với 50 cô gái thoát y. Giáo hoàng treo giải thưởng cho người đàn ông nào làm tình lâu nhất.
– Giáo Hoàng Paul III (1534-1549) lúc còn là hồng y đã có ba con trai, một con gái. Lúc lên ngôi giáo hoàng, y làm lễ rửa tội cho hai đứa cháu nội và ngoại. Giáo hoàng hay tin dị đoan và thường hỏi ý kiến các thầy bói.
– Giáo Hoàng X (1513-1521) đi tu năm 7 tuổi, được phong chức hồng y năm 13 tuổi và lên làm giáo hoàng lúc 38 tuổi. Y sống cuộc đời của một giáo hoàng hết sức xa hoa, thường xuyên tổ chức dạ vũ với những mục giải trí đắt giá và trụy lạc.
– Trong thời gian này, tu sĩ Martin Luther đến Rome để hành hương với ý tưởng rằng Rome là thành phố thánh thiện (a holy city). Không ngờ tu sĩ Luther đã được chứng kiến một bữa tiệc tại triều đình Vatican có 12 cô gái vũ thoát y. Tu sĩ Luther trở về Đức phát động phong trào chống đối Vatican và lập ra đạo Thệ Phản (Protestanism). Martin Luther tuyên bố: “Không ai có thể tưởng tượng nổi ở Rome đầy dẫy những hành động tội lỗi xấu xa. Người ta phải đến đó để nghe để thấy mới tin. Thật đúng như người ta vẫn thường nói: Nếu có một địa ngục thì Rome đã được xây dựng trên cái địa ngục đó!” (No one can imagine what sins and infamous actions are committed in Rome . They must be seen and heard to be believed. Thus they are in the habit of saying: If there is a hell, Rome is built over it!)
Dưới con mắt của các nhà quan sát quốc tế hiện nay thì Vatican là đầu não của chủ nghĩa đế quốc tinh thần (Spiritual Imperialism) giống như con bạch tuộc có nhiều vòi. Mỗi giáo hội Công Giáo tại mỗi quốc gia là một cái vòi của nó. Trong một thời gian không xa, cái đầu con bạch tuộc Vatican sẽ bị đập nát. Lúc đó, các cái vòi của nó trên khắp thế giới sẽ từ từ tiêu vong mà không cần phải diệt. 
Tuy nhiên tổ chức giáo hội Công Giáo còn để lại đằng sau một khối đông đảo tín đồ mê muội của nó. Vấn đề chính yếu không phải là dùng bạo lực tiêu diệt các tổ chức giáo hội địa phương mà là giáo dục tập thể quần chúng tín đồ, với lòng nhân ái bao dung thông cảm, để họ nhận biết sự thật về giáo hội đã lừa mị họ bấy lâu. Khi mọi nguời đều nhận thức được sự thật thì tà đạo Công giáo sẽ tự nhiên biến mất như cục nước đá đem phơi nắng giữa buổi trưa hè! Sự Thật là linh dược giải cứu tất cả chúng ta.
Share:

Sứ mệnh Hành tinh: Bản Giao hưởng độc đáo của Thiên tài, Đổi mới và Tổng lực


via IFTTT
Share:

Biến đổi khí hậu: Thay đổi bắt đầu từ Chính Bạn - Inner Climate Change: The Change Starts Within You


via IFTTT
Share:

Tà thuyết Pháp Luân Công và sự hoang tưởng của ‘giáo chủ’ Lý Hồng Chí

Các trang truyền bá Pháp Luân Công như Đại Kỷ Nguyên, Tinh Hoa, Minh Huệ sử dụng các câu chuyện lạ, thần bí và khéo léo lồng ghép vào đó những lời quảng cáo tốt đẹp liên quan đến Pháp Luân công để thu hút sự chú ý, để gây ngộ nhận cho nhân dân rằng Pháp Luân Công là tốt, và đặc biệt để gieo vào đầu người dân tâm lý mê tín dị đoan, hoang đường mang thế giới quan của Pháp Luân Công nhằm dễ bề truyền bá.
Lý Hồng Chí trong hình ảnh tuyên truyền chính thức của Pháp Luân Công.
Lý Hồng Chí (sinh năm 1951) là người sáng lập ra Pháp Luân Công, một hệ thống “phát triển thân-tâm” theo kiểu khí công. Ngày 13/5/1992, Lý đã giới thiệu Pháp Luân Công cho công chúng tại thành phố Trường Xuân, Trung Quốc. Từ năm 1992 đến năm 1994, ông ta đã đi khắp Trung Quốc để giảng dạy Pháp Luân Công. Năm 1996, Lý Hồng Chí và gia đình tới định cư ở New York, Mỹ.
.
Tên gọi Pháp Luân Công bắt nguồn từ việc Lý Hồng Chí viết một quyển sách có tên là sách Chuyển Pháp Luân, trùng với tên quyển kinh đầu tiên của đức Phật là Kinh Chuyển Pháp Luân (Pháp Luân nghĩa là Bánh xe Pháp, hay Dharmacakra theo tiếng Phạn). Trong quyển sách này ông ta tự đề cao tâng bốc bản thân, hạ thấp toàn bộ thần Phật, tự ví mình là đấng cứu thế… Lý cho rằng các đại giác giả sáng tạo thế giới và theo những gì ông ta thể hiện thì ông ta chính là một đại giác giả vĩ đại.
Cũng trong quyển sách này, Lý Hồng Chí cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp hoàn toàn sai, cứ thuyết xong nhìn lại lại thấy sai, lại đề cao lên lại nhìn lại lại thấy đều là rất thấp mãi cuối đời mới đạt tầng Như Lai, còn Lý Hồng Chí ngay mở đầu quyển sách này đã tuyên bố “Cả trong và ngoài nước hiện chỉ có tôi là giảng pháp tại cao tầng”. Cũng trong quyển sách này Lý Hồng Chí cho rằng ông ta là người cuối cùng truyền Đại Pháp cứu độ thế giới….
Trong lần giảng pháp tại Quảng Châu, Lý Hồng Chí còn ngông cuồng khi cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni không “Chuyển Pháp Luân” vì tương lai Phật Thích Ca Mâu Ni biết có người (ám chỉ Lý Hồng Chí) mới “Chuyển Pháp Luân”.
Đến năm 2016 Lý Hồng Chí còn thể hiện dã tâm bá chủ tam giới hơn khi tuyên bố rằng toàn chư thần, con người xuống thế gian đều phải “ký thệ ước” với Lý Hồng Chí. Tín đồ Pháp Luân Công xuống thế gian để hoàn thành sứ mệnh truyền bá Pháp Luân Công ra thế giới để cứu chúng sinh. Lịch sử nền văn minh chỉ có 5000 năm, và muốn được sống sót thì phải tin theo ông ta.
Chiêu bài xuyên tạc kinh Phật của Lý Hồng Chí là: Một mặt mượn danh từ của Phật giáo để gây ngộ nhận Pháp Luân Công là Phật pháp để dễ bề lừa gạt dụ dỗ những người ảnh hưởng của Phật giáo; một mặt khác bài xích Phật giáo, coi rằng Phật giáo đã mạt pháp, vì là mạt pháp nên cái gì cũng bại hoại, cái gì cũng sai, cái gì cũng không còn đúng nữa,….
Và đến bây giờ Lý Hồng Chí chính là Phật chủ thần chủ, thần cao nhất, Phật to nhất xuống thế gian để cứu độ. Lý Hồng Chí cũng cho rằng vì là thời mạt pháp nên những gì mà được coi là chân lý, được coi là của đức Phật nói nhưng thực ra đức Phật không nói mà là tự người đời sau diễn giải.v.v… Ngoài ra ông ta còn tuyên truyền về mặt xấu của xã hội, và để cứu rỗi được thì phải theo cái gọi là Chân Thiện Nhẫn – “đặc tính tối cao của vũ trụ” do ông ta đặt ra.
Nhiều người theo Pháp Luân Công, nghe theo lời kinh bịa đặt đã vứt bỏ việc thờ cúng tổ tiên, thờ cúng ông bà cha mẹ, vứt bỏ tín ngưỡng truyền thống, chỉ duy nhất tin theo “Đại giác giả” Lý Hồng Chí. Pháp Luân Công tuyên bố phi tôn giáo, phi chính trị, phi kinh tế nhưng cuối cùng lại thờ, sám hối, cầu, niệm Lý Hồng Chí để Pháp Thân của Lý Hồng Chí phù hộ.
Để dễ bề truyền bá Pháp Luân Công qua internet thì Lý Hồng Chí yêu cầu tín đồ Pháp Luân Công phải đi “giảng chân tướng”, và phải coi đó là việc cơ bản của tín đồ Pháp Luân Công. Hệ thống truyền thông của Pháp Luân Công liên tục cho đăng các bài báo với tính chất giật tít, lừa đảo sai sự thật như “nghe đọc Chuyển Pháp Luân của Lý Hồng Chí liệt 12 năm tự đứng dậy đi”, hay là “niệm Pháp Luân Đại Pháp Hảo thì khỏi bệnh AIDS sau một tháng”.
Tiêu đề một số bài viết trên Minghui (Minh Huệ), website chính thức của Pháp Luân Công.
Ngoài ra, họ còn tuyên truyền rằng đã có hàng trăm triệu người theo, 140 quốc gia theo…. vì vậy nên Pháp Luân Công là tốt… Trên thực tế đây đều là những số liệu không hề được dẫn nguồn, không hề có tính xác thực và đáng tin cậy.
Trong tác phẩm Chuyển Pháp Luân, Lý Hồng Chí miêu tả tập Pháp Luân Công sẽ khiến vật chất trong cơ thể con người sẽ biến thành vật chất cao năng lượng, vật chất của không gian khác, trẻ rất lâu. Trong cuốn sách hoang đường của mình, Lý Hồng Chí cũng cho rằng mấy chục năm qua bản thân ông ta không hề già đi.
Lý Hồng Chí năm 2017 (66 tuổi).
Tuy nhiên, những bức ảnh không được chỉnh sửa cho thấy Lý Hồng Chí không hề trẻ lâu như bản thân ông ta tuyên truyền. Khi không thể thừa nhận rằng mình cũng đi theo theo quy luật sinh-lão-bệnh-tử thì Lý chỉ đạo tín đồ Pháp Luân công tuyên truyền rằng ông ta già đi do gánh nghiệp cho đệ tử….
Các trang truyền bá Pháp Luân Công như Đại Kỷ Nguyên, Tinh Hoa, Minh Huệ sử dụng các câu chuyện lạ, thần bí và khéo léo lồng ghép vào đó những lời quảng cáo tốt đẹp liên quan đến Pháp Luân công để thu hút sự chú ý, để gây ngộ nhận cho nhân dân rằng Pháp Luân Công là tốt, và đặc biệt để gieo vào đầu người dân tâm lý mê tín dị đoan, hoang đường mang thế giới quan của Pháp Luân Công nhằm dễ bề truyền bá.
Những điều xuyên tạc, bịa đặt của Lý Hồng Chí và Pháp Luân Công thì nhiều vô kể, trong thời lượng một bài báo khó có thể kể ra hết được. Thay lời kết, xin gửi một lời nhắn đến toàn thể các bậc tăng ni Phật tử cũng như toàn thể nhân dân “phải thận trọng trước tà đạo Pháp Luân Công.”
Một số nội dung truyền bá chủ đạo của Pháp Luân Công
Thuyết tận thế, thuyết mạt pháp trên các trang mạng của Pháp Luân Công tuyên truyền xã hội đã bại hoại dựa trên các lời sấm, tiên tri, khải huyền, hoa Ưu Đàm để gán ghép Lý Hồng Chí là cứu thế chủ, là sáng thế chủ, là Phật chủ, là Chuyển Luân Thánh Vương…. Trên các trang nội bộ, bài giảng của Lý Hồng Chí tuyên truyền rằng phải theo lời dạy của Lý Hồng Chí, phải làm những gì Lý Hồng Chí dạy thì mới được cứu vớt (tương tự ý trong kinh Cựu Ước của Do Thái giáo loài người đã làm nhiều tội ác phải có một tiên tri xuống cứu vớt nhân loại). Lý Hồng Chí cũng tuyên truyền trái đất đã trải qua nhiều nền văn minh và Lý Hồng Chí là người cuối cùng truyền đại Pháp cứu với nhân loại (đây là một ý tưởng phổ biến tương tự của Hồi giáo ngài Muhammad là tiên tri cuối cùng của Thiên chúa).
Thuyết Thần sáng tạo thế giới, chư thần cai quản việc hạ giới và tín đồ Pháp Luân Công là chư thần cứu chúng sinh, và không dễ nhận thấy Lý Hồng Chí chính là thượng đế, là thần lớn nhất… (cũng tương tự các quan điểm của các tôn giáo như Hindu giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo nhưng đấng sáng tạo của các tôn giáo này không tự thần thánh bản thân mình như Lý Hồng Chí)
Thuyết thế giới Pháp Luân, cõi Pháp Luân (cũng tương tự như là cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật giáo Đại thừa) nhưng Lý Hồng Chí cho rằng cõi này còn cao hơn cả cõi Tây Phương Cực Lạc, và chính Lý Hồng Chí là giáo chủ, là kẻ sáng tạo ra thế giới này.
Thuyết Niệm Pháp Luân Công chữa được khỏi bệnh thần kỳ, niệm Pháp Luân Công được Pháp Thân của Lý Hồng Chí bảo hộ, niệm Pháp Luân Công chữa được AIDS,… ý tưởng từ thuyết niệm Phật của Tịnh Độ tông, một pháp môn của Phật giáo…
Một số nội dung tuyên truyền khác như Lý Hồng Chí khẳng định với tín đồ Pháp Luân Công rằng họ đã thoát khỏi tam giới được Lý Hồng Chí xóa sổ khỏi địa ngục, người khác đều có tên trong địa ngục, pháp thân sư phụ bảo hộ, pháp luyện người 24/24. Tập khí công có khả năng siêu phàm như biết vũ trụ nổ 9 lần, trái đất có 81 nền văn minh, các vấn đề tam minh lục thông, tập Pháp Luân Công được pháp thân của Lý Hồng Chí chữa khỏi bệnh, làm tịnh hóa cơ thể,.v.v…
Do vậy phần lớn các tư tưởng của Pháp Luân Công đều được sử dụng từ ý tưởng rất nổi tiếng của các tôn giáo khác chứ không có gì mới, thuật ngữ của Pháp Luân Công sử dụng từ các thuật ngữ của Phật giáo, Lý Hồng Chí bài xích hạ bệ giáo chủ của tôn giáo khác, nhưng mục đích cuối cùng là để thần thánh hóa chính bản thân mình, và biến tín đồ Pháp Luân Công trở thành những người mê muội ví dụ hàng ngày phải bốn lần phát niệm tiêu diệt tà linh, ốm không cần thuốc, chỉ có việc duy nhất phải làm là truyền bá Pháp Luân Công.v.v…
Theo PHATGIAO.ORG.VN
Share:

Mahatma Gandhi – Lãnh tụ tinh thần của nhân dân Ấn Độ


via IFTTT
Share:

Hồ Chí Minh - Một hành trình (full chuẩn)


via IFTTT
Share:

Luật nhân quả là luật của vũ trụ, không phải của thần hay Phật

Hầu như ai ai trong chúng ta cũng đã từng nghe đến hai từ “Nhân” và “Quả”. Nếu làm lành thì sau này sẽ hưởng một quả báo lành, an vui và hạnh phúc. Ngược lại, nếu làm việc ác thì quả báo đau khổ, trầm luân sẽ không thể nào tránh khỏi.
Nhân Quả là quy luật vận hành tự nhiên của vạn vật và vũ trụ. Không phải do Trời, Phật hay một đấng tối cao nào tạo lập và cũng không một ai có thể can thiệp được. Xưa nay vốn dĩ như vậy, rất bình đẳng. Một người gây tội ác có thể lọt lưới pháp luật thế gian nhưng không thể nào thoát được nhân quả và báo ứng. Nhân gian thường nói: “Ở hiền thì gặp lành và gieo gió ắt sẽ gặt bão” hay “Nếu muốn biết quá khứ hãy nhìn hiện tại. Nếu muốn biết tương lai ra sao thì hiện tại sẽ trả lời” cũng là đạo lý về Nhân Quả vậy!
Thật ra nhân quả rất sâu xa, không dễ gì hàng phàm phu chúng ta có thể hiểu hết được mà ngay đến cảnh giới của Bồ-tát vẫn chưa thể thấu suốt. Kinh dạy: “Bồ- tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Bồ-tát làm việc gì cũng sợ lỗi lầm, làm việc gì cũng cân nhắc trước sau rồi mới làm để tránh đi những quả báo đau khổ về sau. Chúng sanh phàm phu thì ngược lại. Đôi khi biết việc là sai mà vẫn cứ làm nên đã gây ra bao ác nghiệp phải đoạ lạc trầm luân trong khắp nẻo khổ đau của luân hồi.
Trong nhà Phật cũng thường nói: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không”. Thăng lên hay đoạ lạc, phàm phu hay thành Phật cũng không ngoài Nhân Quả.
Thời còn tại thế, Đức Phật cũng đã từng có lần cảnh báo cho những người không tin Nhân Quả báo ứng mà kể ra một câu chuyện cho thấy dù đã thành Phật mà vẫn còn bị nhân quả chi phối. Kinh dạy rằng, thuở nọ ở Ấn Độ, trong thành Ca-tỳ-la-vệ có một ao nước, bao nhiêu tôm cá đều bị người dân bắt làm thịt ăn hết. Trong ao ấy có một con cá lớn cũng bị bắt. Có một chú bé, tuy không ăn cá nhưng lại đùa nghịch dùng cây gõ lên đầu cá ba cái. Trong thời Phật Thích Ca tại thế, vua Ba-Tư-Nặc rất mến mộ Đạo Phật, cưới một cô con gái dòng họ Thích Ca sinh ra một Thái tử tên là Lưu Ly. Thuở nhỏ, Thái tử Lưu Ly thường qua quê ngoại bên thành Ca-tỳ-la-vệ chơi. Một hôm, do đùa nghịch nơi toà thuyết pháp của Phật và bị người gác đuổi ra nên sinh tâm sân hận. Thái tử Lưu Ly nuôi lòng hận thù ấy cho đến khi lớn lên và làm vua liền cho quân sang đánh thành Ca-tỳ-la-vệ, giết sạch cư dân trong thành. Đức Phật biết nhưng cũng khuyên ngăn không được. Đồng thời, trong thời gian này, Đức Phật cũng bị đau đầu ba ngày. Lúc ấy, ngài Mục Kiền Liên được xem là vị có thần thông bậc nhất trong số mười đệ tử lớn của Phật đã phát lòng từ bi dùng thần thông đưa mấy trăm người dòng họ Thích Ca cho vào bát và tạm đưa lên cõi Trời lánh nạn. Song cuối cùng cũng không thể cứu được mà khi đưa về thì trong bát chỉ còn toàn là máu. Các đại đệ tử cầu Đức Phật dạy rõ nguyên nhân. Nhân đây, Phật đã phương tiện kể lại câu chuyện tiền kiếp dân làng giết cá khi xưa. Con cá lớn trong hồ xưa kia nay đã đầu thai lại chính là vua Lưu Ly. Những con tôm cá trong hồ bị giết hại nay chính là đại quân binh theo vua đánh thành Ca-tỳ-la-vệ. Dân trong thành và những người nhà dòng họ Thích Ca bị giết chết chính là những người đã bắt cá tôm giết ăn thuở nọ. Chú bé tuy không ăn cá nhưng lại đùa nghịch và lấy cây gõ vào đầu cá ba cái nay chính là Đức Phật Thích Ca bây giờ, nên cũng đã bị đau đầu ba ngày…
Những câu chuyện thế này, ngày nay do đã quá xa với thời Đức Phật còn tại thế nên người đời rất khó tin. Nhưng người đời cho dù có tin hay không tin thì sự thật muôn đời vẫn là sự thật. Kinh dạy: “Như Lai nói lời chân, lời thật, lời như, lời không dối, lời chẳng khác”. Đâu phải nói không tin là không có? Nếu không tin, sẽ không có thì chúng ta cũng sẽ không tin cho khoẻ? Tất cả chúng ta dù muốn hay không muốn, cũng đang chịu sự chi phối rất rõ ràng của Nhân Quả.
Gần đây, cũng có người vì chưa hiểu sâu về nhân quả nên tuy lúc đầu cũng đi chùa, làm thiện nhưng khi gặp chuyện bất trắc, nghịch cảnh đến trong cuộc sống thì liền sanh tâm than Trời trách Phật không linh nên không tiếp tục đến chùa hay làm thiện nữa thì quả thật rất đáng tiếc! Bất trắc hôm nay đến là nó phải đến, kể cả chúng ta có làm thiện hay không làm, cúng chùa hay không cúng chùa, nhưng vì kiếp trước đã làm quá nhiều việc ác nên kiếp này phải trả, còn những việc làm thiện lành hôm nay thì kiếp sau hay cuối đời này mình mới được hưởng, vì nhân quả là thông cả ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai. Nên có Hiện Báo (Thấy ngay trong kiếp này), Sanh Báo (Kiếp sau mới thấy) và Hậu Báo (Những kiếp lâu xa về sau khi hội đủ duyên mới thấy).
Hơn nữa, phải xem lại trước đây chúng ta đã làm ác, ăn ở thất đức thế nào? Và nay mình đã làm thiện được bao nhiêu? Chứ vay mười, mới trả có ba mà đòi xoá hết nợ xem sao cho hợp phải không các bạn? Nói làm thiện để trả lại chỉ là cách nói an ủi mà thôi, chứ làm thiện thì có thiện báo, ác sẽ có ác báo vốn không thay nhau được. Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu giữa Nhân và Quả còn có Duyên. Nếu trước đây do vô minh đã trót lỡ tạo nghiệp ác. Nay biết lỗi, sám hối và hứa sẽ không còn tái phạm, và từ đây sẽ không ngừng tu thiện để cắt các duyên xấu thì quả xấu chưa trổ. Và phát tâm tinh tấn tu hành giải thoát sinh tử để thành Thánh nhân, Bồ-tát, Phật với đầy đủ trí tuệ và năng lực để sau này phát đại thệ nguyện phân thân tái sinh về khắp nơi trong các cõi mà đền ơn và cứu độ chúng sinh thì mới thật rốt ráo và viên mãn.
Các bạn ạ! Kiếp này, nếu ai may mắn, giàu sang hơn người cũng là do ở kiếp trước đã từng cúng dường, bố thí… Nếu bây giờ mà không lo tạo phước, tu hành thì kiếp sau phải đói khổ, bất hạnh. Hiểu được đạo lý Nhân Quả, chúng ta sẽ sống rất tự tại và an lạc ngay trong cuộc sống hôm nay vì chúng ta sẽ không lầm nhân quả và biết chấp nhận tất cả những gì không may đến với mình. Từ đó mà sám hối và vươn lên nỗ lực tu hành, tích cực làm nhiều việc thiện lành hơn nữa thì tương lai chắc chắn sẽ rất tốt đẹp. Hoà thượng Tịnh Không cũng đã từng nói: “Lỗi không phải do người khác, lỗi là ở chính mình”. Các bạn hãy tự suy ngẫm lời dạy này nói đến nhân quả ba đời quả thật là vô cùng bổ ích mỗi khi tiếp người, đối vật và gặp trắc trở trong cuộc sống.
Share:

Che: Phần 2 (2008) 720p Full Movie


via IFTTT
Share:

Lưu trữ Blog

Translate