Thiên Nhãn: Giải mã một Biểu tượng bí ẩn trong Lịch sử

 ‘Thiên Nhãn’ (Eye of Providence) – hình ảnh con mắt độc nhất nằm trong hình tam giác – là một trong những biểu tượng như thế, được gắn không chỉ với hội Tam Điểm (Freemasonry) mà cả với hội Khai Sáng (Illuminati), một hội kín gồm những cá nhân ưu tú được cho là đang tìm cách kiểm soát các vấn đề toàn cầu.


Biểu tượng Thiên nhãn có sức hút lớn đối với các tín đồ thuyết âm mưu, bởi nó ẩn mình ở khắp nơi: không chỉ xuất hiện tại vô số nhà thờ và các toà nhà có liên quan đến hội Tam Điểm trên khắp thế giới, mà nó còn được in trên mặt sau của tờ Một USD cũng như đã từng là biểu tượng trên Đại Ấn của Hoa Kỳ (The Great Seal of the United States).

Nguồn gốc

Trên thực tế, biểu tượng Thiên Nhãn là một sự lựa chọn khó hiểu và có phần kỳ lạ cho chính quyền của Hoa Kỳ.

Con mắt độc nhất quái gở truyền tải rõ rệt cảm giác ám ảnh về một nhà cầm quyền chuyên chế kiểm soát công dân. Kết hợp với hình ảnh kim tự tháp bên dưới, ta thấy giống biểu tượng đại diện cho một giáo phái bí mật cổ truyền.

Vậy nguồn gốc của biểu tượng Thiên nhãn là gì, tại sao nó lại thu hút chúng ta mãnh liệt như vậy, và tại sao nó thường gắn liền với các hội kín như Hội Tam Điểm và Hội Khai sáng?

Thiên Nhãn về gốc gác vốn là một biểu tượng của Cơ Đốc giáo và xuất hiện sớm nhất trong những tác phẩm nghệ thuật tôn giáo của thời kỳ Phục Hưng, nhằm thể hiện Chúa.

Một trong số đó là tác phẩm nghệ thuật “Bữa tiệc tại Emmaus” của hoạ sĩ Pontormo vẽ năm 1525 mặc dù biểu tượng Thiên Nhãn được vẽ thêm vào sau khi tác phẩm đã hoàn thành, có lẽ là trong khoảng thập niên 1600.

Một nguồn gốc khác nữa của Thiên Nhãn, đó là quyển tập hợp các biểu tượng, có tên là “Iconologia”, được xuất bản năm 1593.

Trong những phiên bản về sau, biểu tượng Thiên Nhãn được thêm vào như một dạng nhân cách hoá “Thánh Ý”, tức là lòng từ bi của Chúa. Theo như tên gọi và mục đích sơ khai của nó, Thiên Nhãn được tạo ra như một dấu hiệu cho sự chở che đầy yêu thương của Chúa đối với con người.

Dựa trên quá khứ

Không ai biết chắc chắn được người nào là tác giả đầu tiên tạo ra Thiên Nhãn, nhưng người tạo ra nó chắc đã tham khảo một bộ mô-típ về các tôn giáo từng tồn tại trong quá khứ xa xưa.

Hình tam giác vốn là một biểu tượng lâu đời của Chúa Ba Ngôi, gồm Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần; trong những thế kỷ trước hình ảnh Chúa đôi lúc còn được mô tả như một vầng hào quang hình tam giác.

Những tia sáng thường được vẽ quanh biểu tượng Thiên Nhãn cũng là một dấu hiệu đã có từ cổ xưa, được cho là ánh hào quang của Chúa trong mỹ thuật Thiên chúa giáo.

Vậy còn nguồn gốc của hình ảnh độc nhãn là gì?

Trong quá khứ Chúa đã từng được mô tả dưới rất nhiều hình dạng huyền bí, chẳng hạn như dưới dạng bàn tay hiện ra trong mây, nhưng lại chưa bao giờ là một con mắt cả.

Trong cuốn “Book of Hours”, Thiên Chúa được mô tả như một vầng hào quang hình tam giác – có liên hệ với biểu tượng Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần

Có thể nói rằng hình ảnh con mắt độc nhất tự bản thân nó tác động đến tâm lý người xem, ngầm thể hiện uy quyền và sự dõi theo đầy chăm chú.

Hiệu ứng này còn được thấy trong thiên nhiên: “đốm mắt” xuất hiện trên lớp da của một số loài vật nhằm hù doạ kẻ săn mồi.

Nhiếp ảnh gia theo trường phái Siêu thực Man Ray đã tóm gọn chuẩn xác nhất về sự huyền bí của con mắt đơn độc khi ông nhận xét rằng bức tranh “Chiếc gương giả dối” (“The False Mirror” – 1929) của hoạ sĩ René Magritte “nhìn thấu được những gì mà người ta nhìn thấy từ chính bản thân chiếc gương”.

Tuy nhiên, có một lịch sử sâu xa hơn về việc con mắt được dùng thành biểu tượng mà chúng ta cần suy xét – câu chuyện lịch sử đưa chúng ta quay trở về với những tôn giáo cổ xưa nhất.

Vào thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, người Sumer đã biểu đạt sự linh thiêng cho những bức tượng cổ bằng cách khắc lên đôi mắt mở to bất thường để tăng cường cảm giác được theo dõi sát sao. Họ còn tổ chức các nghi lễ mà trong đó các nghệ sĩ sẽ thổi hồn vào các bức tượng bằng cách “khai quang điểm nhãn” cho đôi mắt của các nhân vật.

Người Sumer khắc đôi mắt mở to bất thường để biểu đạt sự linh thiêng của những bức tượng thần thánh. Tuy nhiên chính người Ai Cập cổ đại mới là tác giả của mô típ ‘độc nhãn’: ví dụ như họ vẽ đôi mắt trên quan tài nhằm giúp người chết nhìn thấy mọi thứ trong thế giới bên kia. Và một trong những biểu tượng con mắt nổi tiếng nhất của Ai Cập là “Eye of Horus” (Con mắt của thần Horus).

Mô típ này thực chất là một sự kết hợp giữa mắt người và mắt chim ưng, có hàng lông mày rậm và vệt lông má đặc trưng của loài chim này.

Theo thần thoại Ai Cập cổ đại, vương thần Horus (thường được miêu tả có hình dạng chim ưng hoặc mình người đầu ưng) bị mất một mắt trong trận chiến với người chú của mình là Set. Sau đó, với sự giúp đỡ của thần Thoth, con mắt đã được chữa lành. Vì thế con mắt của thần Horus (The Eye of Horus) đã trở thành biểu tượng mang tính bảo vệ, thường được dùng làm bùa hộ mệnh hay một món điêu khắc bỏ túi mang theo bên người để phòng thân.

Biểu tượng này và những chữ viết tượng hình Ai Cập cổ xưa thể hiện những con mắt đơn độc đã gây ảnh hưởng lên nghệ thuật hình tượng châu Âu thời Phục Hưng.

Khi ấy, các học giả và nghệ sĩ có niềm say mê với chữ viết Ai Cập cổ; tuy nhiên họ không hiểu đầy đủ về nó và dù đã cố gắng diễn dịch song lại dịch không chính xác. Một trong những bản dịch nổi tiếng nhất là của tác phẩm trữ tình năm 1499 mang tên “The Dream of Poliphilo” (Giấc mơ Poliphilo), trong đó hình ảnh con mắt độc nhất của Ai Cập được hiểu là “Thượng Đế”.

Tam sao thất bản

Điều này bắt nguồn từ một hiểu lầm căn bản về cách dùng sơ khởi của bộ chữ tượng hình Ai Cập cổ.

Thời nay chúng ta biết rằng các chữ viết tượng hình là sự thể hiện chủ yếu là các ký hiệu âm thanh, nhưng hồi thế kỷ 15 và 16 những bộ chữ tượng hình này lại mang ý nghĩa thần bí hơn nhiều.

Những hình ảnh trong bộ chữ viết tượng hình – thú vật, chim chóc và các hình thù khó hiểu khác – được xem là bí ẩn một cách có chủ ý, mỗi biểu tượng được cắt nghĩa dựa trên cảm hứng của người đọc chứ không phải căn cứ theo hệ thống ngôn ngữ. Vì thế nên người ta tin rằng chúng chứa đựng những câu đố đa nghĩa.

Niềm tin này có ảnh hưởng vô cùng to lớn tới nghệ thuật châu Âu. Khi các bộ từ điển ký tự ra đời, như cuốn “Emblemata” của Andrea Alciati năm 1531 và sau đó là cuốn Iconologia của Cesare Ripa, người ta nhấn mạnh tới sự khó hiểu, mà thường là các biểu tượng trông rất phức tạp, khiến người xem phải tìm cách giải mã và diễn giải thêm về những ý nghĩa của chúng.

Kết quả là một mô típ nghệ thuật như biểu tượng Thiên Nhãn đã được chủ ý khoác lên cái vẻ bề ngoài huyền bí. Đó là điển hình về một biểu tượng gần như được tạo ra chỉ để cho người tao phải diễn giải lại, thậm chí là bị hiểu sai hoàn toàn.

Và điều này thực sự đã xảy ra vào cuối thế kỷ 18. Có ba ví dụ điển hình trong giai đoạn này, cho thấy sự đa dạng ngày càng tăng về tính biểu tượng của Thiên Nhãn.

Ở Pháp vào thời hậu cách mạng dân chủ, bức tranh Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789 của tác giả Jean-Jacques-François Le Barbier thể hiện dòng chữ mang nội dung cấp tiến của bản tuyên ngôn mới cùng với hình ảnh Thiên Nhãn ở phía trên. Trong trường hợp này, Thiên Nhãn đã trở thành một công cụ chuyên chế, nhằm giám sát quốc gia non trẻ đi theo xu hướng bình quyền (tự do – bình đẳng – bác ái) vừa được thành lập.

Ở Anh năm 1794, triết gia Jeremy Bentham đặt hàng kiến trúc sư Willey Reveley thiết kế logo cho nhà tù Panopticon của ông – một nhà tù mới đột phá trong cách giám sát liên tục các phòng giam. Nổi bật trong thiết kế logo đó là hình ảnh Thiên Nhãn – biểu tượng cho sự dõi theo liên tục không lơi lỏng của nền tư pháp công chính – những nguyên tắc được thể hiện bởi những từ viết ở ba cạnh của hình tam giác: “Khoan dung”, “Công lý”, và “Cẩn trọng”.

Trước đó vài năm, vào năm 1782, Đại Ấn của của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được công bố.

Thomas Jefferson, Benjamin Franklin và John Adams đã đề xuất ý tưởng thiết kế, tuy nhiên chính Chủ tịch Quốc hội Lục địa Charles Thomson, với sự hợp tác cùng một luật sư kiêm nghệ sĩ trẻ William Barton, đã nghĩ ra hình ảnh kim tự tháp và Thiên Nhãn, bên cạnh các chi tiết khác của con dấu.

Hình ảnh chiếc kim tự tháp dang dở tượng trưng cho “sức mạnh và sự bền bỉ” với 13 nấc thang đại diện cho 13 tiểu bang lập quốc của Hoa Kỳ. Thiên Nhãn – như trong hai ví dụ trước đó ở Pháp và Anh – là biểu tượng ước lệ cho sự chở che đầy nhân ái của Chúa đối với quốc gia non trẻ.

Cả ba lựa chọn biểu tượng Thiên Nhãn trong các ví dụ trên đều không có liên quan gì đến hội kín Tam Điểm.

Thiết kế của William Barton được dùng cho mặt sau của biểu tượng quốc gia Hoa Kỳ, mặc dù các phương châm trọng yếu trên đó đã thay đổi qua thời gian.

Vậy còn hội kín Khai sáng thì sao?

Thông tin về những năm đầu thành lập của hội này, bắt đầu vào năm 1776 ở Bavaria và tan rã vào năm 1787 vẫn còn rất mờ mịt. Bất tiện hơn nữa là không ai biết được tầm quan trọng của các biểu trưng tượng hình trong thời sơ khai của tổ chức này.

Liệu có đúng là hội kín Khai Sáng được truyền cảm hứng từ hội kín Tam Điểm, vốn thỉnh thoảng có dùng Thiên Nhãn làm biểu tượng của Đấng Khai sáng Toàn năng (Thượng Đế), đi theo cách thức của vô số các giáo hội vào thời điểm đó hay không?

Tuy nhiên, người của hội Tam Điểm không sử dụng rộng rãi biểu tượng Thiên Nhãn cho tới cuối thế kỷ 18, và dùng sau so với việc Bentham, Le Barbier, Thomson và Barton (trong các ví dụ nêu trên) đưa nó vào dùng với các mục đích mang tính chính nghĩa của họ.

Thật không may cho những tín đồ của thuyết âm mưu, biểu tượng Thiên Nhãn trên tờ 1 USD nhằm phản ánh xu hướng thẩm mỹ thời thế kỷ 18 thay vì là sự thể hiện quyền lực của giới tinh hoa bí mật.

Cho đến nay, các nghệ sĩ như Madonna, Jay-Z và Kanye West đều bị cáo buộc sử dụng các biểu tượng của hội kín Khai Sáng, trong đó có hình ảnh Thiên Nhãn.

Nhưng thay vì có bất kỳ mối liên hệ nào với hội kín Khai Sáng thì các nghệ sỹ này có một điểm chung, đó là họ đều có cái nhìn nhạy bén đối với những thứ nổi bật về hình ảnh và âm thanh.

Việc Thiên Nhãn liên tục được sử dụng – từ Madonna, Jay-Z, Bentham, Le Barbier, Thomson, Barton, Freemasons, cho đến các nghệ sĩ thời Phục hưng hoặc bất kỳ cá nhân hay tập thể nào khác – là bằng chứng cho thấy đó không phải là một âm mưu được giật dây dàn dựng, mà đơn thuần chỉ là thể hiện sự xuất chúng vượt thời gian của một mẫu thiết kế biểu tượng.

Share:

MỘT KHÚC HỒNG TRẦN - Lãng Khách


via IFTTT
Share:

MỪNG XUÂN THẾ GIỚI MỚI


via IFTTT
Share:

THẾ GIỚI ĐÃ THAY ĐỔI - LIỆU CON NGƯỜI CÓ ĐỔI THAY?


via IFTTT
Share:

Một cái nhìn về Tâm linh – Bản thể Con người

 Albert Einstein đã nói tới một tôn giáo vũ trụ như tiên đề của khám phá khoa học: “Sự thể nghiệm tôn giáo vũ trụ là sự thể nghiệm cao cả nhất, mạnh mẽ nhất có thể nảy sinh từ một sự nghiên cứu sâu sắc”.



Khi chủ nghĩa duy lý chưa ra đời và chưa chi phối đời sống con người, đời sống tâm linh ở con người rất dễ được nhận thấy, thậm chí nó thâm nhập tất cả các mặt đời sống khác của con người. Nhưng trong xã hội hiện đại, khi lý trí được tôn thờ như một quyền lực vạn năng, chủ nghĩa duy lý đã đem lại cho con người một sức mạnh nhận thức mới để chiếm lĩnh thế giới chung quanh, khiến cho con người có được nhiều thứ hơn- vật chất cũng như tinh thần – trước đó chưa hề có, nó lại làm cho con người mất đi nhiều thứ vốn có của nó, trước hết là đời sống tâm linh.

Alexis Carrel, giải Nobel, tác giả cuốn sách nổi tiếng Con người – một ẩn số (L’homme, cet inconnu), viết rất hay về vấn đề này: “Công nghệ hiện đại đem lại cho chúng ta sư giàu có, sức khỏe, tiện nghi, mọi thuận lợi trong đời sống; nó cho phép chúng ta lập ra một thiên đường mới trên Trái đất. Nhưng các khoa học về sự sống vô cùng lạc hậu so với các khoa học về tinh thần.

Chính vì thế, con người hiện đại đưa vật chất lên hàng đầu và hy sinh cái tâm linh cho kinh tế. Nó từ bỏ đất đai tổ tiên và những bạn bè, động vật, để sống giữa đám dân không hồn là máy móc… Nó vi phạm rất cả các quy luật của sự sống mà không hề tự nghi ngờ” (A.Carrl, Reflexions sur conduite de la vie).

Tâm linh, một mặt của đời sống tinh thần, lấy cái thiêng liêng (le sacré) làm đối tượng. Cái thiêng liêng gắn với sự thăng hoa, với sự tự vươn lên của con người tới cái tuyệt đối, cái vô cùng, cái toàn năng, cái hoàn thiện. Những cái đó là có thể nhận thức được, tất nhiên không phải bằng lý trí, bằng khoa học, mà bằng sự cảm nhận tính toàn bộ (holisme) của vũ trụ. Chẳng hạn trong Phật giáo,con người bằng trực giác có thể “ngộ” cái “chân như” cái “chân tâm” với tư cách bản thể của sự vật, mặc dầu không coi đó là cái thần bí. Trong Phật giáo, có cái thiêng liêng nhưng không có cái thần bí.

Vậy thì, cái thiêng liêng – cốt lõi của đời sống tâm linh ấy – ở đâu ra?

Không ở đâu khác, ngoài bản thể con người.

Xét về mặt bản thể luận, con người sinh ra với những mâu thuẫn nội tại của nó, và toàn bộ đời sống của một cá nhân hay của một cộng đồng đều là sự giải quyết vô cùng tận những mâu thuẫn ấy.

Thứ nhất, con người sinh ra như một thực thể hữu hạn giống như mọi sinh vật khác, nhưng khác với những sinh vật khác nó luôn luôn hướng tới sự vô hạn. Không một người nào bằng lòng với tính hữu hạn của đời sống con người. Ai cũng muốn kéo dài sự sống của mình thành ra vô hạn, ngay cả sau khi không còn sống nữa. Hướng tới tính vô hạn, tính bất tử là một thiên hướng bản thể của con người. Sự chôn cất đồng loại, sự thờ cúng tổ tiên…là những biểu hiện cố hữu của thiên hướng đó.

Thứ hai, mỗi con người sinh ra là kết quả của những yếu tố ngẫu nhiên, những yếu tố không do bản thân mình định trước (từ nguồn gốc tổ tông, sự kết hợp của bố mẹ, đến cả thời điểm thụ thai, được sinh ra và vô số những yếu tố khác…), nhưng khi đã có mặt trên đời như một tất yếu, đều khẳng định ý nghĩa cuộc sống của mình mà chỉ mình mới có. Đó là cái được tâm lý học gọi là sự tự khẳng định, tự thể hiện và tự thực hiện của mỗi cá nhân con người. Và thiên hướng ấy luôn luôn tăng lên mà không giảm đi.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa thiên hướng cực tiểu vốn có và thiên hướng cực đại muốn có ở mỗi con người. Sinh ra là một “hạt bụi” trong vũ trụ, con người bao giờ cũng hướng tới sự chiếm lĩnh (ít ra về mặt nhận thức) toàn bộ thế giới chung quanh. Những câu hỏi được đặt ra và được trả lời vô cùng tận là những cầu hỏi về nguyên thủy và cứu cánh của con người, của vũ trụ (con người và vũ trụ có nguồn gốc từ đâu và đi tới đâu?).

Thứ tư, sinh ra như một “sinh vật mong manh” giữa muôn vàn mối đe doạ từ tự nhiên và chính bản thân con người, mỗi người đều hướng tới những sức mạnh toàn năng nhằm đạt tới sự an toàn tối đa và sự chiếm lĩnh mọi cái cần thiết cũng đến mức tối đa.

Với tư cách một thực thể hiện hữu, con người phải giải quyết những mâu thuẫn ấy từ trong ý thức sâu xa của mình, và chính đời sống tâm linh là cách giải quyết duy nhất có thể có.

Trong đời sống tâm linh, con người sống với những hoài bão, những khát vọng hướng thượng, hướng thiện, vươn tới cái tuyệt đối, cái vô hạn, cái toàn năng, tóm lại, cái siêu việt. Và vì tất cả những cái đó đều không có trong thế giới hiện hữu, nên chúng biến thành những cái thiêng liêng đối với con người. Cái thiêng liêng, vì thế, vừa là đích hướng tới không nguôi của con người, vừa là cái không bao giờ đạt tới được. Và dù không bao giớ đạt tới được, nhưng lúc nào nó cũng vẫy gọi con người. Nó trở thành cái tiềm thức, cái vô thức ở con người.

Đời sống tâm linh đòi hỏi một sự thừa nhận cái thiêng liêng, hiểu như cái tuyệt đối, cái vô hạn, cái toàn năng. Nhưng cái thiêng liêng ấy một khi chưa được chiếm lĩnh (tức là chưa được nhận thức, hay ít ra chưa được cảm nhận sâu sắc, chưa được sử dụng để làm cho con người cảm thấy có sức mạnh lớn hơn, hay ít ra cảm thấy đỡ yếu ớt hơn), thì vẫn còn trong trạng thái lơ lửng ở đâu đó. Nó phải được đối tượng hóa ở một vật, một người, hay một ý niệm, để con người thông qua nó mà chiếm lĩnh nó. Khi tôi cảm thấy một ngọn núi, một vực sâu, một Thượng đế, một Ông Trời, một lẽ huyền vi nào đó là thiêng liêng thật, và khi tôi sùng kính những thứ đó như những cái thiêng liêng thật, khi đó tính thiêng liêng của chúng sẽ truyền vào bản thân tôi, tạo thêm cho tôi một sức mạnh mà tôi chưa có. Khi đó, tôi cảm thấy yên tâm hơn, có sức chịu đựng lớn hơn, tỉnh táo hơn, tự tin hơn và thậm chí tự do hơn. Đó chính là sức mạnh của lòng tin nơi con người.

Với ý thức tôn giáo, tôi tin rằng tôi có thể trở thành bất tử. Với ý thức đó, tôi tin rằng tôi có một năng lực lớn hơn năng lực vốn có ở bản thân mình. Với ý thức đó, tôi tin rằng những mối liên hệ của tôi với thế giới chung quanh, với vũ trụ, được nhân lên gấp bội. Tóm lại, với ý thức tôn giáo, tôi chiếm lĩnh được thế giới chung quanh, cả về không gian lẫn thời gian, đến mức vô hạn. Chính vì thế mà nhiều nhà khoa học lớn trên thế giới đã thừa nhận tầm quan trọng không thể thay thế được của sự chiếm lĩnh tôn giáo, bên cạnh sự chiếm lĩnh khoa học của chính họ.

Nhà vật lý vĩ đại của thế kỷ chúng ta. Albert Einstein, người sáng lập ra thuyết tương đối, đã nói tới một tôn giáo vũ trụ (religion cosmique) như tiên đề của khám phá khoa học: “Sự thể nghiệm tôn giáo vũ trụ là sự thể nghiệm cao cả nhất, mạnh mẽ nhất có thể nảy sinh từ một sự nghiên cứu sâu sắc”. Ông còn nói: “Người nào mất đi ý thức về lẽ huyền bí cũng sẽ mât đi năng lực thán phục, tôn trọng sâu sắc và giống như một người đã chết”. I.P.Pavlov, người sáng lập ra thuyến phản xạ có điều kiện rất quen thuộc với chúng ta, cũng nói: “Tôi bài bác chủ nghĩa duy vật cận thị đã đơn giản hóa sự vật một cách thô thiển và quá sớm; đã hạ thấp sự vật trước những bản tính trong sáng toàn vẹn”. Đó chỉ là vài ví dụ trong rất nhiều ví dụ khác.

Những phương thức cảm nhận ý thức tôn giáo đã hình thành từ rất xa xưa, từ lúc con người có đời sống tâm linh. Nhà nghiên cứu Ngà D.V.Pivovarov cho rằng “Những phương thức phổ biến nhất là “ảo tưởng về tính ngoài thân thể” và “sự thấu suốt huyền bí”. “Ảo tưởng về tính ngoài thân thể” là ý định thoát ra thoe lối trừu tượng khỏi thân thể cá nhân mình và nhìn thấy thế giới chung quanh (Vũ trụ, xã hội, dân tộc mình,….) như là từ phía bên ngoài, do đó thấy được sự tôn tại cá nhân của mình là một phần ý nghĩa của sự toàn vẹn lớn lao. “Sự thấu suốt huyền bí” là sự nhìn thấy trực tiếp các sự vật một cách trong suốt và hòa chung thành một, cũng như sự chìm lặn vào cái “Tôi” của mình, vượt qua những giới hạn ngăn cách mình với thế giới bên ngoài và hòa mình vào dòng chảy của các sự kiện thế giới” (Tôn giáo: thực chất và đổi mới, “Các khoa học triết học”, số 2, Moskva, 1992, tr.67).

Cái mà về sau người ta đúc thành những sách kinh tôn giáo chủ yếu là ghi lại những lời của những nhà hiền triết: Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, Zoroastre, Khổng Tử, Moise, Christ, Mohammed, v.v. nói lên từ sự “thấu suốt huyền bí”, và chắc chắn chỉ có thể cảm nhận những lời nói đó mà không thể dùng những phương tiện lý tính để hiểu chúng.

Xin lấy một ví dụ: Đức phật nói rằng thế giới là “sắc sắc không không” (có mà không, không mà có). Điều vừa nói phải chăng là “duy tâm” nhảm nhí? Với những tri thức cũ, dựa vào các khoa học có tính cơ học (chủ yếu là vật lý Newton), có thể nói như vậy. Nhưng với sự phát triển của chính những thành tựu khoa học, sự phân chia thành “tâm” và “vật” không còn thích hợp nữa. Vật lý lượng tử cho thấy ngay cả những hạt – sóng ánh sáng đã mang theo “ý thức” của chúng và xóa bỏ sự phân chia giữa chủ thể quan sát và khách thể được quan sát. Thế giới chia đôi trở thành thế giới thống hợp (integres). Những hạt cơ bản như dạng vật chất nhỏ nhất trong hạt nhân nguyên tử chỉ là kết quả của sự tác động giữa các trường, mà trường lại là một phạm trù phi vật chất. Nghĩa là cái có hóa ra là cái không có.

Những nhà duy vật triệt để cũng không thoát khỏi ý thức tôn giáo, vì chính những người đó dù muốn hay không cũng coi những ý niệm, những quan niệm của mình là thiêng liêng. Trong Biện chứng của tự nhiên, F.Engels đã từng khẳng định: Với qui luật vận động vĩnh cửu, vô cùng tận của vật chất, nều một ngày nào đó sự sống trên trái đất này mất đi, thì nó lại xuất hiện như một tất yếu ở một nơi nào khác trong vũ trụ bao la của chúng ta!

Chính Engels thừa nhận chân lý tuyệt đối là có thật, vì nều không, nhận thức của loài người sẽ không thể phát triển đi lên, nhưng không bao giờ con người đạt tới những chân lý tuyệt đối ấy cả. Giữa tính tất yếu tối thượng và những chân lý tuyệt đối ấy với cái mà ở đây chúng tôi gọi là “ý thức tôn giáo”, có gì khác nhau về căn bản đâu! Chính vì lẽ đó, người ta thấy có những nét tương đồng giữa những “tín đồ” của chủ nghĩa duy vật và những tín đồ của các tôn giáo khác, trước hết ở lòng tin tuyệt đối vào những chân lý cũng tuyệt đối của mình.

Và cuối cùng, không nên đồng nhất ý thức tôn giáo với một tôn giáo cụ thể, với những giáo lý của tôn giáo ấy, cũng như không nên – và không thể – đồng nhất cái chung trừu tượng và cái riêng cụ thể. Ở mỗi tộc người, mỗi cộng đồng người, những hình thức tín ngưỡng, thờ cúng bắt nguồn từ những điều kiện và những truyền thống riêng, từ những thế giới quan riêng, từ những phong tục và tập quán riêng. Những có một điều chắc chắn: Cái nền chung của tất cả các tôn giáo hết sức khác nhau ấy là ý thức tôn giáo, như một chiều kích bản thể (Dimensio ontologique) của chính bản thân con người.

Trong sự phát triển lịch sử của loại người, chủ nghĩa duy lý là một bước tiến rất lớn trên con đường nhận thức thế giới của con người. Với chủ nghĩa duy lý, lịch sử loài người bước vào giai đoạn hiện đại, con người do đó cũng trở thành con người hiện đại. Ở nhiều nước lạc hậu hiện nay (trong đó có nước ta), rõ ràng đang cần, rất cần, vô cùng cần đến những tri thức khoa học thuộc mọi lĩnh vực, nói cách khác, chúng ta đang cần đi tới chủ nghĩa duy lý, vì chúng ta đang thiếu nó. Vấn đề chỉ là ở chỗ đừng tuyệt đối hóa nó. Mọi tri thức khoa học (theo đúng nghĩa của nó) đều cần thiết, nhưng không thể coi là đủ. Vì để sống cuộc sống con người (cũng theo đúng nghĩa của nó), ngoài tri thức khoa học ra, còn phải có nhiều thứ khác: đạo đức, mỹ học và nhất là tâm linh.

Share:

VIỆT NAM TỪ TRÊN CAO

 Với dân số hơn 90 triệu người, Việt Nam là nơi có những cảnh quan tuyệt đẹp và những ngôi đền lịch sử, đồng thời là một trong những thành phố phát triển nhanh nhất hành tinh. Trong chuyến hành trình khó quên này, chúng tôi đi từ những dãy núi ở phía bắc của đất nước đến phía nam nhiệt đới, ngắm nhìn những kỳ quan địa lý tuyệt đẹp, những ngôi chùa cao chót vót và cảnh quan đa dạng ngoạn mục.

 Chúng ta hãy cùng xem phim (bạn có thể click xem toàn màn hình ở góc phải dưới):

Share:

7 Võ Sĩ Samurai - Seven Samurai (1954)

 


Câu chuyện xảy ra ở nước Nhật vào đầu thế kỷ 1586, giai đoạn mà nạn đói hành hoành, giặc giã nổi lên khắp nơi bởi thiên tai và sự bóc lột của tầng lớp phong kiến thống trị. Bị đe dọa liên miên bởi một băng cướp gồm 40 tên, một ngôi làng tổ chức cuộc họp toàn thể để quyết định xem nên chống lại hay phục tùng. Khi ấy lúa đang chín và mọi nông dân đều hiểu rằng bọn cướp sẽ tấn công khi họ hoàn tất việc thu hoạch mùa màng. Khi trưởng làng tuyên bố sẽ đánh trả bọn cướp, một vấn đề lại nảy sinh: Tìm đâu ra võ sĩ đạo để giúp đỡ dân làng?

Đó quả là bài toán hóc búa bởi vì ở thời ấy, võ sĩ đạo phục vụ tầng lớp thượng lưu. Chỉ những võ sĩ đạo không có chủ mới chịu giúp đỡ tầng lớp lao động, nhưng lại đòi tiền công rất cao và hay dùng tài năng để quyến rũ các thôn nữ. Trưởng làng chỉ đạo đám chức sắc thuê những "võ sĩ đói ăn" ở thành phố. Mặc dù vậy, chiến dịch tìm kiếm của họ vẫn thất bại. Tất cả những người được mời đều đòi có một khoản tiền công ngoài 3 bữa cơm mỗi ngày - một điều kiện vượt quá khả năng của làng.

May mắn thay, trong lúc tuyệt vọng thì họ gặp Kambei Shimada (Takashi Shimura), một chiến binh già nhưng cực kỳ khôn ngoan. Đồng ý giúp đỡ dân làng, Kambei đi khắp thành phố để thuyết phục 5 võ sĩ đạo tự do khác cùng chiến đấu với ông. Sau đó họ kết nạp thêm Kikuchiyu, một võ sĩ đạo giả danh thích tìm kiếm cảm giác mạnh.
Mời được võ sĩ đạo rồi nhưng dân làng vẫn lo sợ họ sẽ đòi hỏi thái quá. Khi nhóm của Kambei phát hiện ra rằng dân làng từng giết hại và cướp bóc của võ sĩ đạo thì họ tỏ ra choáng váng và tức giận. Nhưng khi Kikuchiyo, vốn là một nông dân, kể cho 6 người anh em về nỗi thống khổ của nông dân dưới sự áp bức của tầng lớp võ sĩ đạo thì nỗi tức giận của họ biến thành cảm giác hổ thẹn. Ngay sau đó, khi các võ sĩ đạo biết rằng dân làng chỉ ăn sắn, khoai để dành cho họ những món ăn ngon nhất thì họ thực sự cảm động. Kambei đem chia thức ăn cho người già và những người mắc bệnh. Những võ sĩ đạo kia cũng làm theo ông.

Kambei chủ trương đào hào, đắp lũy để cản đường bọn cướp. Các võ sĩ đạo huấn luyện trai tráng trong làng các kỹ thuật chiến đấu cơ bản. Để dằn mặt bọn cướp, ông tổ chức một cuộc tập kích vào sào huyệt của chúng. Trong quá trình chuẩn bị, Katsushiro, võ sĩ ít tuổi nhất, phải lòng một thôn nữ giả trai để được học kiếm thuật.
Rồi cái ngày mà dân làng lo sợ đã đến. Những chướng ngại vật mà dân làng dựng lên khiến bọn cướp không thể tiến nhanh. Nhiều tên mất mạng khi tìm cách phá chiến lũy hoặc vượt qua hào sâu. Tuy nhiên, nhờ lợi thế về số lượng và sự hỗ trợ của ba khẩu súng hỏa mai nên cuối cùng chúng cũng tiến sát đến chiến lũy cuối cùng.

Nhận thấy không thể thắng bọn cướp bằng chiến thuật phòng thủ trong khi đã mất 3 võ sĩ đạo bởi súng hỏa mai, Kambei quyết định dùng chiến thuật mới. Mỗi khi lũ cướp xông lên, ông ra lệnh cho mọi người mở cổng lũy. Khi vài tên chạy qua, cổng được đóng lại để dân làng xông ra tiêu diệt chúng. Chiến thuật ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần và đều thành công. Khi bọn cướp chỉ còn lại 13 người, các võ sĩ đạo nhận thấy dân làng đã kiệt sức nên quyết định để cả bọn vào cổng. Trong cuộc đối đầu cuối cùng, thêm một võ sĩ nữa tử trận bởi khẩu súng hỏa mai của tên tướng cướp, nhưng dân làng đã tạo nên thế áp đảo so với bọn cướp ...

 Chúng ta hãy cùng xem phim (bạn có thể click xem toàn màn hình ở góc phải dưới):

Share:

Lưu trữ Blog

Translate