Ý thức hệ Cao Đài
Bức tranh "Tam thánh ký hòa ước" tượng
trưng tinh thần "Đại đồng nhân loại" và "Thiên nhân hòa
ước"
Thông thường, để tìm hiểu một tôn
giáo người ta tìm hiểu vũ trụ quan, nhân sinh quan, nền giáo lý và những giáo
điều-đạo luật của tôn giáo đó. Cụ thể hơn, tìm hiểu mục đích tôn chỉ mà vị giáo
chủ đã đề ra.Nhưng trong bối cảnh Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế khai minh Đại Đạo không chỉ đơn thuần là sáng lập một tôn giáo mới. Mà đó lại là cuộc vận động vô cùng trọng đại nhằm cải tạo sâu rộng tư tưởng và đời sống nhân sanh toàn thế giới. Đại Đạo TKPĐ không phải chỉ là một đáp ứng nhu cầu đức tin, nhu cầu tâm linh hay làm chỗ dựa cho đời sống thế gian.
Đại Đạo là Cơ đạo nhằm kêu gọi mọi người thời đại đồng hành đạo, tức cùng hành động vì tiền đồ tiến hóa chung của nhân lọai.
Thế nên, từ nền giáo lý tổng quát của Đạo, tức thượng tầng kiến trúc của giáo thuyết, cần phải rút ra một cơ cấu ý thức có công dụng chỉ đạo cho sứ mạng thực hiện tôn chỉ mục đích bằng những đường lối và phương châm hành đạo, sống đạo.
Cơ cấu ý thức đó, nói theo từ ngữ triết học là ý thức hệ.
Để giới thiệu ý thức hệ Cao Đài như một cơ cấu chặt chẽ, những quan điểm làm nền tảng và những phương thức hay giải pháp thực hiện những quan điểm ấy được lần lượt nêu lên sau đây.
Những trọng điểm
của Sứ mạng Đại đạo
Phục hồi Nhân bản,
tạo thế Nhân hòa đi đến Đại đồng nhân loại
Về mặt nhân sinh, Đại đồng nhân
loại là một lý tưởng của thế giới, một ước vọng của loài người mà cũng là mục
tiêu của Sứ mạng Đại Đạo. Gọi là lý tưởng hẳn nhiên không thể đạt đến một cách
dễ dàng. Tuy nhiên, "không phải Đức Chí Tôn cấy lúa trên tảng đá hay
trao quyển binh thư cho người mù chữ" vì Ngài biết rằng con cái Ngài
đã thừa hưởng được cái vốn liếng quí giá của Ngài từ lúc ra đi. Chỉ còn vấn đề
là biết vận dụng, khai thác nó ra sao để mọi người đều có thể góp phần vào sự
nghiệp chung của toàn cõi nhân sinh.Vốn liếng ấy chính là Nhân bản.
Sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ chọn khâu đột phá để thực hiện "thế đạo đại đồng" là phục hồi Nhân bản bởi vì con người đã vô tình hay hữu ý đánh mất cái bản vị cao quí ấy. Do say sưa men đời, đắm chìm trong dục hải, hoặc ngây ngất trên ngôi hư danh ngã mạn.
Nên thánh giáo Cao Đài viết: "Cái bản vị cao quý nhất của con người đối với vạn vật vạn linh cũng là cái rất quan trọng với chính nó trong cuộc sống toàn diện, là sống theo đúng bản vị của con người trong ý nghĩa bất tử bất biến [...] nhưng chính nó đã biến thái rất nhiều trong màn đêm lục thức mà cứ ngỡ rằng vẫn còn rực rỡ huy hoàng đẹp đẽ như cánh bướm, như hoa tươi, trong muôn ngàn tiếng ngợi khen vô nghĩa hão huyền" (Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, CQPTGL, 15.4 Tân Dậu, 1981)
Giáo lý Đại Đạo cảnh tỉnh con người trở về Nhân bản bằng cách:
- Nhắc nhở đẳng cấp tiến hóa của con người đứng
trên vạn vật, vạn vật hiện sinh bằng bản năng và bằng thú tánh, nhưng con
người có thêm trí năng và thiên lương (lương năng).
"Người là muôn mặt cân phân,
Lý tình gồm đủ, hình thần câu diêu."
( câu: cùng; diêu hay diệu: rất hay, rất tốt, huyền diệu)
(Đạo Học Chỉ Nam - Nhân sanh nhất quán)
- Nhìn nhận con người là một chủ thể đã tiến
hóa qua con đường gian khổ diệu vợi bằng vô lượng kiếp mới đạt đến địa vị
gần với Trời, nhưng vẫn phải học hỏi, trau giồi, phụng sự để tiếp tục tiến
hóa đến tận cuối đường là cõi thiêng liêng bất diệt. Thế gian chưa phải là
giai đoạn cuối cùng của con đường tiến hóa. Nhưng cuộc sống thế gian là
điều kiện để tiếp tục tiến hóa. Nếu tự mãn hay bất mãn ở cõi này đều bị
trở ngại hoặc thoái hóa.
"Xét tình trạng nhân sanh xã hội,
Biết tùy thời thay đổi tiến tu;
Cùng nhau vẹt sạch áng mù,
Dắt dìu ra khỏi trần tù bất công."
(ĐHCN - Nhân sanh nhất quán)
"Tự tánh thiên nhiên
không làm cho cuộc đời là giả tạm, mà chính chỗ dục vọng của con người mới biến
đổi là tạm bợ mà thôi." (Quan Âm Bồ Tát, Trúc Lâm Thiền Điện, 20.10 Quí Sửu, 1973)- Con người là một tuyệt tác của Tạo hóa nhưng
không phải là một pho tượng mỹ thuật để ngắm nhìn, ngược lại giá trị kỳ
diệu của nó ở chỗ nó vẫn tiếp tục tạo tác không ngừng để phụng sự cho cuộc
tiến hóa chung của đồng loại và vạn vật.
Người đời đang sống, đang hoạt động trong những lĩnh vực, hoàn cảnh khác nhau, nhưng sống và hoạt động mỗi mỗi đều với ý thức nghĩa vụ của một nhân sanh, là đang ở trên nhân bản.
- Nhưng điểm đặc biệt quan trọng nhứt trong sứ
mạng phục hồi Nhân bản của Đại đạo Tam Kỳ Phổ Độ là khai thông mối liên hệ
giữa Người và Trời. Bởi vì Nhân bản không chỉ là trọng tâm của nhân tính
mà tối yếu là hàm ẩn Thượng đế tính trong con người. Cho nên Nhân bản là
điểm nối kết của Tâm linh với Nhân sinh. Sứ mạng Đại đạo dạy cho con người
tìm ra chiếc chìa khóa khai thông ấy ở nội tâm, tâm trung thanh tịnh thuần
khiết.
Đưa tôn giáo lên
tầm vóc Đại Đạo, xây dựng thực thể Đạo cứu thế
Đây là sứ
mạng quy nguyên tôn giáo.Các tôn giáo phát sinh từ Đại Đạo, trải qua lịch sử nhân loại trong mục đích cứu độ con người, đã chịu nhiều biến đổi làm xa cách chơn truyền của các bậc giáo tổ. Một khi đã phân hóa cùng cực, tôn giáo không thể thực hiện sứ mạng cứu rỗi nhân sanh nữa. Tôn giáo muốn giữ được bản chất nguyên thủy, đeo đuổi mục đích cứu độ thực tiễn và toàn diện, phải tùng theo qui luật qui nguyên phục nhứt, tức là phục hồi tinh thần Đại đạo, nêu cao một giáo lý thuần nhứt dẫn dắt nhân sanh tiến hóa tại thế gian và giải thoát xuất thế gian, trở về nguồn gốc tâm linh là Đại Linh Quang.
Do đó, Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Cao Đài nêu lên tôn chỉ:
"Tam giáo quy nguyên, ngũ chi phục nhứt."
Trong Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, Ngài dạy:
"Ngày nay, Thầy đến đây đem ba nền tôn giáo hiệp nhất lại tạo thành một nền tôn giáo lớn lao để đời đời kiếp kiếp cho nhơn sanh nương vào đó mà lánh cơ nạn khổ thảm sầu." (Đại Thừa Chơn Giáo, Trước tiết tàng thơ, 1956, trang 91)
Hiệp nhứt ba nền tôn giáo nói trên không có nghĩa là thống nhứt Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo thành một giáo hội là Cao Đài giáo. Nhưng đó là sự tổng hợp Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo.
"Tam giáo quy nguyên" là sự biểu hiện một công cuộc hồi sinh chánh pháp của Đức Chí Tôn. Quy nguyên được Tam giáo thì chánh pháp sáng tỏ, bởi vì chánh pháp thị hiện ra ở chỗ đắc nhứt của Tam giáo. Từ đó vạn giáo sẽ đều thấy sáng tỏ chánh pháp trong mỗi tôn giáo của mình để góp phần xây dựng con đường phản bổn hoàn nguyên cho nhân sanh.
Thế nên Đức Chí Tôn phán: "Thầy nhứt định quy nguyên phục nhứt." (TNHT, Q1, Tây Ninh, 1973, tr.18)
Đường lối quy nguyên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là đặt một sứ mạng quyền pháp mở đầu cơ cứu độ kỳ ba: Sứ mạng Cao Đài.
"Trước xây đắp Cao Đài thánh đức,
Dụng Nam Bang làm mức phóng khai,
Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
Năm châu, bốn bể hòa hài từ đây"
(CQPTGL, 15.02. Q.Hợi, 1983)
Chính hai chữ "phóng
khai" cho ta khái niệm đầu tiên về quyền pháp. Quyền pháp là động năng
phóng phát, chuyển hóa, vận hành Đạo vào tất cả các sở vật thực tại để thúc đẩy
cơ tiến hóa tài thành từ vũ trụ vô biên đến vật loại tế vi.Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo định nghĩa một cách rốt ráo phổ quát "Quyền pháp là cơ, là lý, là phương định đưa tuyệt đối vào sở vật tương đối, chuyển vô thường giả tạm vào siêu nhiên bất diệt." (TGST 1968-1969, tr.88)
Cái "cơ", cái "lý" có công năng thần diệu như thế không phải do cơ mưu hay lý trí, mà do quyền năng của Tạo hóa đặt vào.
Phổ truyền chánh
pháp Đại đạo, ban trao Sứ mạng Đại thừa
Từ buổi ban sơ khai đạo, mục đích
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã nêu lên: "Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải
thoát". Do đó trọng điểm thứ ba của Sứ mạng Đại Đạo, không thể thiếu
được để lập thành cơ cứu độ toàn diện, từ xây đời Thánh đức đến giải thoát tâm
linh, đó là sứ mạng phổ truyền Chánh pháp Đại Đạo.Kể từ ngày mùng 1 tháng Giêng năm Tân Dậu (08.02.1921), khi Đức Cao Đài Tiên Ông ban lệnh cho người đệ tử đầu tiên: "Chiêu, tam niên trường trai" để được thọ truyền đạo pháp, thì chánh pháp Đại Đạo đã được mở đầu cho Tam Kỳ Phổ Độ rồi vậy.
Đến cuối năm 1936 (01.10 Bính Tý), khi ban Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, là quyển kinh đầu tiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ về Đạo pháp, Đức Chí Tôn đã nêu Thánh ý như sau:
"Ngày nay Đạo đã trải qua "thời kỳ phổ thông" mà bước đến "thời kỳ giáo hóa" nên chi Thầy mới giáng một pho "Đại Thừa Tâm pháp" để cho các con tầm lối băng về, noi theo giáo lý của Thầy đây, chắc là thoát khỏi bến mê bể khổ." (ĐTCG, Trước tiết tàng thơ, chương 24, tr.116)
Như thế song song với cơ phổ độ công truyền thì cơ tâm truyền chánh pháp Thiên đạo đại thừa cũng được hoằng hóa để cứu độ nguyên nhân.
Thiên đạo đại thừa là pháp môn tự độ độ tha. Trong Thiên đạo giải thoát có Sứ mạng Đại thừa. Trong Sứ mạng Đại thừa phải thực hành Thiên đạo.
"Thiên đạo trường lưu khắp vạn loài,
Chuyển cơ tiến hóa nhiệm mầu thay;
Đại thừa sứ mạng hành thiên đạo,
Nào quản Hè Đông nẻo dặm dài"
(Đông Lâm Tiên Trưởng, 15.10 Đinh Tỵ, 1977)
Tuy nhiên, trên mục tiêu tận độ,
Tân pháp Cao Đài được phổ truyền bằng Tam công
để người tu mọi căn cơ đều có thể tu tiến toàn diện, Đức Vô Cực Từ Tôn từng ưu
ái dặn dò đàn con giác ngộ rằng:"Nay Tam Kỳ Phổ Độ, Trời hé máy thiên cơ vạch đường chỉ lối cho tu, ráng tập luyện công trình (rèn luyện đức tính), công quả (phục vụ xã hội), công phu (thiền định), thì chắc chắn một kiếp sẽ được thành công đắc quả". (CQ, Rằm- 02 Đinh Tỵ, 1977)
Kết luận
Nói một cách khái quát, Sứ mạng
Đại đạo Tam Kỳ Phổ Độ là sứ mạng cứu độ toàn diện cá thể con người và toàn thể
nhân loại.Nhằm thực hiện sứ mạng ấy, Đại đạo đã và đang tiến đến ba mục tiêu:
- Phục hồi Nhân bản, tạo thế Nhân hòa, xây dựng
đại đồng nhân loại.
- Quy nguyên tôn giáo, lập thành thực thể Đạo
thuần chánh cứu thế.
- Phổ truyền Chánh pháp, ban trao Sứ mạng Đại
thừa.
Cần nhớ rằng, Sứ mạng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Sứ mạng Thiên nhân hiệp nhứt rất đặc biệt trong Tam Kỳ Phổ Độ. Nó không phải là sứ mạng riêng của một giáo chủ, của một tôn giáo, một dân tộc để gieo truyền một đức tin làm thế tựa tâm linh đơn thuần.
Kể từ khi Thiên Nhãn thị hiện, rồi danh hiệu "Ngọc Hoàng Thượng Đế Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" được xưng ra tại thế gian lần đầu tiên và người đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài đắc đạo tại tiền, cái trục "Thiên nhơn hiệp nhứt" đã nối liền trung tâm vũ trụ với trung tâm con người để thi hành sứ mạng phổ độ kỳ ba.
Tất cả những nguồn năng lực cứu độ và những đối tượng được cứu độ sẽ qui về trục thần quang này. Đó là trục "vạn linh hiệp với Chí linh", chuyển nhân loại vào thế pháp tái tạo cõi đời, trong đó mỗi con người đã phục hồi Nhân bản thể hiện đầy đủ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín trở thành một gút lưới của toàn mạng lưới rung động không ngừng, "sửa loạn thành trị, đổi cùng thành thông, chuyển bỉ thành thới".
Do đó Tam Kỳ Phổ Độ không có giáo chủ hữu hình nhưng mỗi người con tin của Thượng Đế nếu chưa là một Thích Ca Mâu Ni, một Khổng Tử, một Giêxu cũng phải là một Ca Diếp, một Nhan Hồi, một Pierre... Có như thế tôn chỉ mục đích và các trọng điểm sứ mạng kỳ ba mới có thể hoàn thành được.
Cho nên Đức Thượng Đế Khai Minh Đại Đạo đồng thời khai minh chân giá trị con người thực hiện sứ mạng vi nhân, nhận lãnh Sứ mạng Đại thừa, tham dự vào Thiên cơ, nhờ đó đại cuộc Tam Kỳ Phổ Độ có cái sức mạnh phi thường bao quát thiên thượng và thiên hạ, cải hóa con người, tái lập cuộc đời, thúc đẩy tiến hóa tâm linh trở về cứu cánh.
"Một ánh linh quang tỏa khắp cùng,
Khai minh Đại đạo gội nhuần chung;
Soi đường chánh giáo kỳ nguơn hạ,
Mở lối Tiên thiên buổi cuối cùng."
(Hội Đồng Tiền Bối Tiền Khai ĐĐ.- CQPTGL, Rằm.10 Kỷ Mùi 1979)
Giải pháp thực
hiện Sứ mạng Đại đạo
Theo giáo lý Cao Đài, cũng như
của nhiều tôn giáo khác, lịch sử nhân loại đang trải qua thời kỳ sau cùng của
một đại chu kỳ từ thượng nguơn, trung nguơn đến hạ nguơn. Và thời hạ nguơn này
là thời mạt kiếp để rồi chuyển sang chu kỳ mới, gọi là tái tạo dinh hoàn, lập
lại trời mới đất mới hay thượng nguơn thánh đức. Đó là quy luật tiến hóa của vũ trụ.
Không thể chỉ có sinh mà không có diệt, không chỉ có diệt mà không có sinh;
sinh diệt, diệt sinh nối tiếp nhau vũ trụ mới vừa trường cửu vừa tiến hóa. Ví
như trong thiên nhiên: "Cánh hoa mai vừa hé nụ, từng loạt lá đã rụng
rơi, rồi hoa lại úa tàn, nhụy hoa tan tác, để dành phần cho quả hạt tạo
thành." (Đức Vạn Hạnh Thiền Sư, TGST 1970-1971, tr. 54.)Đứng trước diễn tiến sàng sảy ráo riết của hạ nguơn theo dây chuyền nhân quả rất khốc liệt, nhân loại đang trong tình trạng kinh hãi, hoang mang; các chính phủ, các đoàn thể, tổ chức, giáo hội toàn cầu đều khẩn thiết tìm kiếm những giải pháp thỏa hiệp, dàn xếp khủng hoảng, chấm dứt chiến tranh. Nhưng hầu như tất cả đều tuyệt vọng. Vậy, từ Ý thức hệ Cao Đài, có thể nêu lên những giải pháp nào cho công cuộc cứu độ thời kỳ này?
Các giải pháp cứu
độ
Giải pháp tiên quyết là giải pháp
con người, vì chính con người có đầy đủ phẩm chất về thể xác lẫn tinh thần hiển
lộ hoặc tiềm tàng có thể phát huy để trở thành con người hoàn thiện và tiến
hóa. Hơn nữa con người có thể đạt một quyền năng siêu việt trong mối tương quan
với xã hội và vũ trụ.- Sứ mạng cứu độ phải vận dụng được tối đa đặc
ân Thiên nhân hiệp nhứt trong Tam Kỳ Phổ Độ này.
- Từ những xác định đó, chúng ta có thể đề ra
các giải pháp đặc biệt cho cơ cứu độ hạ nguơn.
Giải
pháp đối với cá thể con người
Như đã thấy ở phần trên, con
người là:- Hiển dương tốt đẹp nhất của bản thể vũ trụ
tại thế gian.
- Động năng tiến hóa của bản thân và tác năng
tài thành cho vạn loại.
Giải pháp đối với
cá thể
- Nếu ta chọn trục ngang biểu diễn công phu
thăng hoa của con người mà điểm trung tâm là nơi Thần Khí tụ hội, lúc đó,
là cao điểm của công phu, và tại nơi đây chủ thể con người sẽ thu nhập
được năng lực của vũ trụ (biểu diễn bằng trục dọc), cũng ở cao độ.
:"Cái bản vị cao quý nhất của con người đối với vạn vật vạn linh là cái quan trọng với chính nó trong cuộc sống xã hội nhân sinh. :Cái chỗ chứng đắc của con người toàn diện là sống theo đúng bản vị của con người trong ý nghĩa bất tử bất biến."
(Giáo Tông Đại Đạo, CQPTGL, 15-4 Tân Dậu)
Giải pháp đối với
xã hội nhân sinh
Vẫn lấy bản vị con người làm gốc
để hoàn hảo hóa mối tương quan giữa người và người, đó là căn bản của giải pháp
đối với xã hội nhân sinh.Lý tưởng cứu độ kỳ ba cho xã hội là xây dựng xã hội đại đồng, tức xã hội bình đẳng trên nhân vị và nhân quyền mà mọi sinh hoạt đều hòa hợp bằng tương quan nhân ái. Nói gọn là thiết lập một nền tảng nhân bản để tạo thế nhân hòa. "Có tạo lập được thế nhân hòa thì xã hội đại đồng mới có cơ hội thành hình." (Lê Đại Tiên, TGST 1970-1971, tr. 29.)
Giải pháp đối với
xã hội
Vẫn với trục ngang làm cuộc diện
xây dựng xã hội đại đồng, thì điểm trung tâm phải là nhân bản, nơi đó mọi nhân
tính thuộc về nhân sinh lẫn tâm linh, đều đã phục hồi. Cũng từ trung tâm này,
Thượng đế tính trong mỗi cá thể sẽ thúc đẩy con người hướng lên Đấng Tối Cao
hay lý tưởng Chân Thiện Mỹ (biểu diễn bằng trục dọc).Chừng ấy, bản thể đại đồng của nhân loại sẽ hòa nhập vào bản thể vũ trụ hay, nói theo Đại đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hòa nhập vào ân điển cứu độ của Đại Linh Quang. Xã hội sẽ an lạc và tiến bộ toàn diện.
"Có bản chất đơn thuần Tạo Hóa,
Sẵn thiên lương chơn ngã con người,
Trưởng sinh trong một cõi đời,
Non sông gấm vóc của Trời dành chung."
(Đức Lê Đại Tiên, TGST 1970-1971, tr. 28)
Giải pháp tôn giáo
Giải pháp tôn giáo được đặt để
trên hai chủ thể chính là người sứ mạng của tôn giáo và thực thể đạo cứu thế.1. Người sứ mạng
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, người sứ mạng là người được chọn để thi hành giải pháp cứu độ. Đó là người được ban trao quyền pháp khi hội đủ các điều kiện cơ bản:
- Hiến dâng phụng sự nhân sanh.
- Đứng vào chủ vị của con người Đại đạo là
người đã đạt đến hai điểm giao hội trên đây của bản thân và của xã hội đại
đồng.
- Ý thức sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ là sứ mạng lịch
sử nghìn năm một thuở, sứ mạng quy nguyên phục nhứt. "Dòng sông muôn
ngõ rồi cũng quay về với biển cả. Sứ mạng Thiên ân của con người Đại đạo
là biển cả, là bản thể vô biên." (Đức Giáo Tông Đại Đạo)
Giải pháp đối với
tôn giáo
2. Thực thể Đạo cứu thếThành lập thực thể Đạo cứu thế là giải pháp cứu độ mà các tôn giáo đích thực được kết thành một thực thể quyền pháp có năng lực thực tiễn chuyển hóa cuộc đời sao cho "Đông thành xuân, phàm tục thành tiên thánh, loạn nên trị, chiến đấu ra an bình, vị kỷ ra đại đồng." (Đức Giáo Tông Đại Đạo, NTTT, 01-01 Kỷ Dậu.)
Chúng ta cần lưu ý danh từ "thực thể quyền pháp". Hai chữ quyền pháp luôn luôn hàm ẩn sứ mạng được Thiên cơ trao phó, tác động của nó vô cùng hiệu quả.
Đức Giáo Tông Đại Đạo đã khẳng định giải pháp tôn giáo trong Tam Kỳ Phổ Độ như sau: "Đại Từ Phụ dựng Cao Đài nơi vùng Đông Nam Á này để làm quyền pháp. Chính sứ mạng quyền pháp này thúc đẩy mọi sở vật thực tại tôn giáo kết thành thực thể Đạo cứu thế trong Tam Kỳ Phổ Độ, cũng như cái ngòi gà trong quả trứng vậy." (Đức Giáo Tông Đại Đạo, NTTT, 01-01 Kỷ Dậu)
- Nếu giản lược sơ đồ thứ 3 trên đây thành hai
trục, thì trục ngang chính là Sứ mạng Đại thừa và trục thẳng đứng là Thiên
đạo giải thoát.
"Thiên đạo trường lưu khắp vạn loài,
Chuyển cơ tiến hóa nhiệm mầu thay!
Đại thừa sứ mạng hành Thiên đạo,
Nào quản hè đông nẻo dặm dài."
(Đức Đông Lâm Tiên Trưởng, CQPTGL, 15-10 Đinh Tỵ.)
Kết luận
Đứng trước cuộc diện thế giới
nhơn loại ngày nay với biết bao cảnh tượng chiến tranh, bạo lực mỗi ngày mỗi
giờ có hằng trăm hằng ngàn người ngã gục; với bao thảm trạng đạo đức suy đồi,
từng lớp kẻ đổ xô vào hố thẳm dục vọng, tự hủy diệt từng phút từng giây.Lẽ ra khoa học văn minh hiện đại đủ sức đưa loài người vào đời sống thiên đàng tại trần gian, nhưng ngược lại đau khổ ngày càng chồng chất đó đây với nhịp độ tăng gia khủng khiếp!
Mọi giải pháp hầu như đều bất lực,loài người đang tủi hổ cho địa vị thiên hạ tối linh, không lẽ chỉ chắp tay chờ tận thế?
Nhưng không! con người chính là tạo hóa trong Tạo hóa:
"Con biết con là ai đó chăng?
Con ôi, lý Đạo ráng tầm phăng,
Con là không phải thân phàm xác,
Con vốn Chơn Thần Thượng Đế ban."
(Đức Chí Tôn, Thánh Huấn Hiệp Tuyển, Q. 1, tr. 207)
Vậy loài người không thể tìm ra
giải pháp tự cứu nếu không biết tự phát huy năng lực trong bản thân con người.
Đó là điểm tiên thiên, là Chơn thần, là Đạo, là chìa khóa mở cửa Thiên đàng tại
thế gian và mở cửa Bạch Ngọc Kinh (thượng giới).Dĩ nhiên cái công trình công phu công quả để nắm được chiếc chìa khóa ấy không phải dễ dàng trong một kiếp, nên khi Thượng Đế khai Đại đạo Tam Kỳ Phổ Độ Ngài đã ban đặc ân đại ân xá những đứa con biết giác ngộ tu hành, và hơn thế nữa cho các Đấng Thiêng Liêng lâm phàm dìu dắt, đồng thời cả thiên đình chan rưới điển lành tạo thế thiên nhân hiệp nhứt hầu tận độ chúng sanh.
Với bao nhiêu ưu thế đó, giải pháp cứu độ kỳ ba đã lập thành một thế pháp mà trung tâm thần lực được nối kết từ cõi người đến cõi trời rồi tác động bao trùm thế gian như mạng lưới để chuyển thế từ suy đồi sang thánh đức.
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Tổng quan về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ :http://www.nhipcaugiaoly.com/article/detail.php?article_id=341
Tham khảo
- Về Nhân bản:Origin and meaning of the term
humanism > The ideal of humanitas [1]
- Về Ý thức hệ: http://www.bookrags.com/wiki/Ideology#History_of_the_concept_of_ideology
Thông Công (Đạo Cao Đài)
Thông công là những cách thức
nhằm giao tiếp với thế giới siêu tự nhiên như xây bàn, cầu cơ,
chấp bút (gọi tắt là cơ bút)... Trong Đạo Cao Đài, những phương pháp này đã được nâng lên
hàng Bửu Pháp – nghĩa là những hiện tượng tôn quí. Trong Tòa Thánh Tây Ninh, khoảng trống giữa bàn thờ
Thượng Đế và ngai của Ngôi Giáo Tông được gọi là Cung Đạo. Đây là nơi các chức
sắc cao cấp ngày trước cầu cơ giao tiếp với cõi thiêng liêng. Đứng tại đây nhìn
thẳng lên trần Đền Thánh, sẽ nhìn thấy biểu tượng của các Bửu Pháp này.
Những
cách thức thông công trên trần Cung Đạo
Xin xâm
Trước hết, là hình đắp nổi của
một ống xâm, và một đôi “keo” âm dương. Ống xâm thường là một hình trụ cao
khoảng 0,15 m làm bằng tre. Trong ống đựng những thẻ xâm cũng bằng tre. Mỗi thẻ
này đều có đánh số thứ tự.Nếu muốn hỏi các đấng thiêng liêng điều gì thì người ta xin xâm như sau: người xin quì trước bàn thờ, hai tay cầm ống xâm đưa lên ngang mày, đọc thầm điều muốn hỏi. Sau đó người ta lắc ống xâm theo một cách qui định sẵn. Trong khoảng vài phút sẽ có một thẻ xâm rơi ra khỏi ống.
Bây giờ người ta mới tiến hành xin “keo”. Keo là hai mảnh gỗ đặt vừa lòng bàn tay người. Hai mảnh này có dạng một hạt đậu tách ra làm đôi. Người ta cũng nâng hai mảnh gỗ này ngang mày cầu nguyện. Sau đó thả rơi xuống sàn. Nếu hai mảnh nằm trái chiều nhau, (một sấp một ngửa) điều đó có nghĩa là các đấng thiêng liêng đã đồng ý trả lời bằng thẻ xâm đã rơi ra trước đó.
Cuối cùng người ta đọc số trên thẻ xâm, rồi đến nơi trữ sẵn các quẻ xâm để nhận câu trả lời. Các quẻ xâm thường là một mảnh giấy ghi một bài thơ ngắn kể về một điển tích trong sử hoặc truyện cổ Trung Hoa, và lời bình luận ở dưới. Người ta liên hệ câu chuyện này với bản thân và đoán ra câu trả lời.
Xin xâm thường phổ biến ở các đền thờ, chùa Phật trên khắp đất nước Việt Nam. Trước năm 1975, tại đền thờ Phật Mẫu ở Tòa Thánh Tây Ninh cũng có tổ chức xin xâm. Nhưng sau 1975 thì chính quyền mới đã cấm việc này, cho rằng đây là mê tín dị đoan.
Xây bàn(xoay bàn)
Kế đến người ta sẽ nhìn thấy một
chiếc bàn ba chân tượng trưng cho phương pháp xây bàn. Đây là một chiếc bàn có
một chân ngắn hơn ba chân còn lại. Khi cần giao tiếp với thế giới siêu tự
nhiên, sẽ có nhiều người (số người không giới hạn) ngồi xung quanh bàn, đặt các
bàn tay úp lên bàn rồi cùng cầu nguyện, hoặc đọc một bài thơ có nội dung xin
được tiếp xúc với các linh hồn ở cõi thiêng liêng. Khi cơ giáng, tức là có một
linh hồn nào đó muốn giao tiếp, thì bàn chuyển động và gõ chân xuống nền nhà.
Theo qui ước truyền thống ở Việt Nam,
bàn gõ một nhịp là muốn nói mẫu tự A, hai nhịp là Ă, ba là Â v.v. Cứ như thế,
các mẫu tự sẽ ghép lại thành từ ngữ rồi thành bài văn hay thơ. Trong số các đệ
tử đầu tiên của Cao Đài thì ba ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang và Phạm Công Tắc đã dùng cách này để liên lạc với thế
giới thiêng liêng.
Tiểu Ngọc Cơ
Biểu tượng thứ ba là một bảng mẫu
tự Latin. Đây là hiện tượng cầu cơ rất phổ biến ở các nước phương Tây. Người ta
dùng một miếng gỗ nhỏ có hình quả tim, có thể lắp thêm bi lăn ở dưới đế cho dễ
di chuyển. Đó là cơ. Cơ lại được đặt lên một bảng chữ cái. Khi cầu cơ,
cần có hai người đặt ngón trỏ lên trên cơ sau đó người ta cầu nguyện giống như
khi xây bàn. Khi có một linh hồn nào nhập vào, cơ sẽ di chuyển vòng tròn
(thường là ngược chiều kim đồng hồ nếu ở Việt Nam). Mũi nhọn của trái tim (cơ)
chỉ vào mẫu tự nào thì người ta sẽ ghi chép mẫu tự đó để ghép lại thành văn
bản. Nhiều đệ tử khác trong Đạo Cao Đài đã dùng cách này và gọi đó là Tiểu Ngọc
Cơ.
Đại Ngọc Cơ
Thứ tư là một dụng cụ rất đặc
trưng của Đạo Cao Đài được gọi là Đại Ngọc Cơ. Đây là một chiếc giỏ đan
bằng tre hoặc mây, trên miệng giỏ có một thanh gỗ (thường là bằng cây dâu) gác
ngang qua tâm. Một đầu thanh gỗ vươn dài ra bên ngoài, tận cùng được khắc thành
hình đầu chim loan. Đây chính là bút để viết. Khi sử dụng, giỏ có tư thế úp
miệng xuống và có hai người nâng miệng giỏ. Sau đó người ta cũng cầu nguyện xin
được giao tiếp. Lúc cơ giáng, đầu chim loan sẽ viết xuống mặt bàn, hoặc có khi
viết lên mặt giấy. Do các cách tiếp xúc như xây bàn hoặc dùng Tiểu Ngọc Cơ
thường rất chậm, một bài văn có khi mất cả đêm, nên các đấng thiêng liêng đã
dạy các đệ tử Cao Đài tạo ra Đại Ngọc Cơ để nhận thông tin nhanh hơn và nhiều
hơn.
Chấp Bút
Hình tượng thứ năm là một cây
bút. Đây là một cách thông công dành cho các chức sắc caoTheo tài liệu ghi nhận được thì chỉ có một vài đệ tử đầu tiên là được thiêng liêng cho phép áp dụng cách này. Trong số đó cụ thể nhất là Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Theo cách này, người sử dụng lấy một xấp giấy, đánh số thứ tự vào các mặt giấy rồi đặt ngay trước mặt mình. Sau đó quì trước bàn thờ, dùng tay thuận của mình nâng một cây bút (không bắt buộc phải là bút gì) ngang mày và cầu nguyện. Nếu có hiện tượng giáng bút, tay cầm bút sẽ bị tê rần lên và sẽ tự động hạ xuống viết lên mặt giấy. Lúc này người viết rơi vào trạng thái nửa tỉnh thức, nửa mê man. Khi viết hết một mặt giấy, tay còn lại sẽ tự động lật giấy sang trang để tay cầm bút viết tiếp. Chính vì thế mà phải đánh số trang trước, để khi viết xong, người viết tỉnh lại dễ theo dõi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét