SỰ LIÊN-QUAN GIỮA CON NGƯỜI VÀ VŨ-TRỤ
BỐN THỂ HƯ HOẠI CỦA CON NGƯỜI:
XÁC THÂN – PHÁCH – VÍA - HẠ-TRÍ
SỰ LIÊN-QUAN GIỮA CON NGƯỜI VÀ VŨ-TRỤ
Muốn hiểu sự liên-quan giữa con người và vũ-trụ thì phải biết:
A. Ba ngôi của Đức Thái-Dương Thượng-Đế.
B. Ba ngôi của con người.
C. Sự cấu-tạo những thể của con người.
A - Ba ngôi của ĐỨC THÁI-DƯƠNG THƯỢNG-ĐẾ
--- Đức Thái-Dương Thượng-Đế phân làm 3 ngôi.
1. Ngôi thứ nhứt : Ấn giáo gọi là Brahma - Phạm-Vương. Thiên-Chúa Giáo gọi là Đức Chúa Cha (Dieu, Le Père).
2. Ngôi thứ nhì : Ấn giáo gọi là Vishnou (Quích-Nu). Thiên-Chúa-Giáo gọi là Đức Chúa Con (Dieu, Le Fils).
3. Ngôi thứ ba : Ấn giáo gọi là (Shiva – Si-Hoa). Thiên-Chúa-Giáo gọi là Đức Chúa Thánh Thần (Dieu, le Saint Esprit).
TRẠNG-THÁI CỦA BA NGÔI
1. Trạng-thái của Ngôi thứ nhứt là : Ý-Chí (Volonté).
2. Trạng-thái của Ngôi thứ nhì là : Minh-Triết – Bác-ái (Sagesse – Amour).
3. Trạng-thái của Ngôi thứ ba là : Trí-tuệ sanh-hóa (Intelligence créatrice).
CÔNG VIỆC CỦA BA NGÔI
1. Ngôi thứ ba biến đổi Hổn-Ngươn-nhứt-khí ra những nguyên-tử đặng lập 7 cõi Trời.
2. Ngôi thứ nhì sanh-hóa những hình-dạng các loài và cho chúng nó sự sống.
3. Ngôi thứ nhứt : Khi đúng ngày giờ thì cho Chơn-Thần nhập-thế.
MỤC-ĐÍCH SANH-HÓA THÁI-DƯƠNG-HỆ NẦY
Thái-Dương-Hệ nầy sanh ra để đưa các loài vật tiến tới con người (hay là các Thiên-Thần), còn con người thành một vị Siêu-phàm.
BẢY LOÀI TRÊN DÃY ĐỊA-CẦU CHÚNG TA
Trên dãy Địa-Cầu chúng ta có 7 loài :
1. Tinh-chất thứ nhứt (1ère essence élémentale) ở tại cõi Thượng-Thiên.
2. Tinh-chất thứ nhì (2ème essence élémentale) ở tại cõi Hạ-Thiên.
3. Tinh-chất thứ ba (3ème essence élémentale) ở tại cõi Trung-Giới (Dục-giới).
Còn 4 loài nữa ở tại cõi Trần là :
4. Loài Kim-Thạch.
5. Thảo Mộc.
6. Thú vật.
7. Con người.
Ở đây tôi không kể các hàng Thiên-Thần (trong đó có loài Ngũ-Hành). Mấy Ngài theo đường tiến-hóa riêng biệt khác hơn đường tiến-hóa của con người, nhưng mà các Ngài vẫn giúp-đỡ loài người luôn luôn.
Có điều ta nên nhớ rằng :
Linh-hồn phải đầu thai vào 6 loài kể ra trên đây, hết loài nầy tới loài kia, trước khi làm con người. Ở trong mỗi loài đều có những bài học mà mỗi Linh-hồn phải học cho thiệt thuộc mới được.
B- BA NGÔI CỦA CON NGƯỜI
Cũng như Đức Thái-Dương Thượng-Đế, con người phân làm 3 ngôi :
1. Ngôi thứ nhứt là Chơn-Thần (Monade).
2. Ngôi thứ nhì là Chơn-Nhơn (Soi Supérieur – Ego – INDIVIDUALITÉ).
3. Ngôi thứ ba là Phàm-Nhơn (Soi Inférieur – Personnalité).
Chơn-Thần vốn ở tại Cõi Đại-Niết-Bàn.
Chơn-Thần sanh ra Chơn-Nhơn thế cho mình đặng hoạt-động và học-hỏi ở cõi dưới kế đó là :
Cõi Niết-Bàn.
Cõi Bồ-Đề và
Cõi Thượng-Thiên.
Tới phiên Chơn-Nhơn lại sanh ra Phàm-Nhơn để kinh-nghiệm ở 3 cõi dưới nữa là :
Cõi Hạ-Thiên.
Cõi Trung-giới hay là Dục-Giới và
Cõi Hạ-Giới hay là Hồng-Trần
Nói cho đúng tất cả những người trên thế-gian đều là những Phàm-Nhơn chớ chưa phải là Chơn-Nhơn đâu.
BA NGÔI CỦA CHƠN-NHƠN
Chơn-Nhơn có 3 ngôi :
Ngôi thứ nhứt là Atman
Ngôi thứ nhì là Bouddhi.
Ngôi thứ ba là Manas.
TRẠNG-THÁI CỦA BA NGÔI CỦA CHƠN-NHƠN
Trạng-thái của Ngôi thứ nhứt Atman là Ý-Chí.
Trạng-thái của Ngôi thứ nhì Bouddhi là : Minh-Triết Bác-Ái.
Trạng-thái của Ngôi thứ ba Manas là : Trí-Tuệ sanh-hóa.
Chúng là phản-ảnh 3 ngôi của Đức Thái-Dương Thượng-Đế.
C- NHỮNG THỂ CỦA CON NGƯỜI
Con người có 7 thể, kể ra như sau đây :
1. Tiên-thể hay là thể Thiêng-Liêng – Corps Atmique.
2. Kim-Thân hay là thể Trực-Giác – Corps Bouddhique.
3. Thượng-Trí hay là Nhân-Thể - Corps Mental supérieur ou Corps Causal.
4. Hạ-Trí – Corps mental inférieur.
5. Vía hay Dục-thể - Corps Astral.
6. Phách – Double étherique.
7. Xác thân – Corps physique
Trong 7 thể nầy có 3 thể trường-tồn và 4 thể hư-hoại.
BA THỂ TRƯỜNG-TỒN- BỐN THỂ HƯ-HOẠI
Ba thể trường-tồn là : Tiên-Thể, Kim-Thân và Thượng-Trí.
Chúng theo con người từ đời nầy qua đời kia cho tới khi con người thành chánh quả làm một vị Siêu-phàm.
Bốn thể hư-hoại là : Hạ-trí, Vía, Phách , Xác-thân.
Chúng để dùng trong một kiếp mà thôi. Sau khi con người thác rồi, một ít lâu thì chúng đều tan-rã ra các nguyên-tử, thứ nào theo thứ nấy.
Kiếp sau con người sẽ có 4 thể mới khác và do theo luật Nhân-quả, chúng đồng bản-tánh với 4 thể kiếp trước.
BẢY THỂ CỦA CON NGƯỜI ĐỂ DÙNG TẠI 5 CÕI MÀ THÔI
Bảy thể của con người để dùng tại 5 cõi mà thôi.
1. Xác thân và
2. Cái Phách - để dùng tại cõi Trần.
3. Cái Vía - để dùng tại cõi Trung-Giới hay là Dục-Giới.
4. Hạ-Trí - để dùng tại 4 cảnh thấp cõi Thượng-Giới (cõi Trí-Tuệ), 4 cảnh nầy cũng gọi là cõi Hạ-Thiên
5. Thượng-Trí - để dùng tại 3 cảnh cao cõi Thượng-Giới (Cõi Trí-Tuệ), 3 cảnh nầy cũng gọi là cõi Thượng-Thiên.
6. Kim-Thân - để dùng tại cõi Bồ-Đề.
7. Tiên-Thể - để dùng tại cõi Niết-Bàn.
Còn 2 thể nữa để dùng tại cõi Đại-Niết-Bàn và Tối-Đại-Niết-Bàn ; tới chừng làm một vị Chơn-Tiên rồi mới biết.
Tôi xin nói sơ-lược về 4 thể hư-hoại trước, bởi vì chúng là những thể mà ta dùng thường ngày như :
Xác thân để hành-động, cái Phách để thâu sanh-lực, cái Vía để biểu-hiện ý-muốn và tình cảm, cái Trí để học-hỏi, suy-nghĩ vân vân . . .
I
XÁC THÂN
Xác-thân làm bằng ba chất khí thấp của Hồng-Trần là chất đặc, chất lỏng và chất hơi.
Tuy nhiên nó là thể duy nhứt trong 7 thể được cấu-tạo một cách hoàn-bị hơn hết. Nó tiến-hóa khá cao rồi.
Ít ai ngờ nó là một lò “Tạo Hóa” ở dưới phàm trần chứa không biết bao nhiêu điều bí-mật.
Mặc dầu khoa-học đời nay tiến rất mau và rất nhiều, nhưng người ta cũng chưa biết rõ hết về xác-thân. Nếu không tìm học sự sống hay là phần tinh-thần ở trong những hình-thể mà cứ lo quan-sát vật chất mãi thì e cho cả triệu năm nữa con người cũng chưa khám-phá hết những sự bí-mật trong thân-thể con người.
Xin kể ra vài việc có thật đã xẩy ra trước mắt nhiều người mà khoa-học không giải-thích nỗi. Tỷ như : Đã có những vị đạo-sĩ Fa-Kia (Fakir) bên Ấn-Độ làm cho trái tim ngưng đập mà không chết, uống những ắt-xích (acite) độc và mạnh nhứt, nuốt những đinh sắt, miểng chai vô bụng mà vẩn trơ trơ. Cho chôn dưới đất ba bốn tháng, hay cã năm tùy theo công-phu luyện-tập ; chừng đào lên rồi thì sống lại như thường. Đi qua đi lại trên than đỏ, đứng sửng trong lửa hồng, tắm dầu sôi sùng-sụt mà không phỏng da chút nào, vân vân . . .
Mấy việc nầy thoát ra ngoài phạm-vi những luật vật-lý của cõi Trần và duy có Huyền-Bí-Học mới cắt-nghĩa được mà thôi. Tuy nhiên điều đó không phải là một việc dễ-dàng ai ai cũng hiểu nỗi đâu.
Còn vài sự bí-mật khác nữa như : Phân nữa thân mình bên mặt đờn ông chứa đầy điển dương, phân nữa bên trái chứa đầy điển âm. Còn đàn bà thì trái ngược lại :
Phân nữa bên mặt thì đầy những điển âm, còn phân nữa bên trái thì đầy những điển dương. Nhưng mà bên trong của phía dương lại có âm và bên trong của phía âm lại có dương.
Có hai hạch rất quan-trọng :
Hạch mũi (Corps pituitaire ou hypophyse) để luyện Thần-nhãn còn
Hạch óc (glande pinéale) để chuyển di tư-tưởng.
Trong mình người đàn ông thì bộ Não-tủy thần-kinh làm chủ, còn trong mình người đàn bà thì bộ Giao-cảm thần-kinh làm chủ, vì thế đàn bà có nhiều tình-cảm và dể xúc-động hơn đàn ông.
Còn một việc nữa : Vì sao các giống dân trên Địa-cầu lại không nói một thứ tiếng ? Tại sao đứa bé nước nào sanh ra rồi thì hiểu được và nói được tiếng nước đó, chớ không nói được tiếng nước khác ? Hoàn toàn bí-mật !
PHƯƠNG-PHÁP LUYỆN TẬP XÁC-THÂN
Nhưng mà điều cần-thiết là ta nên biết tánh-nết của xác-thân đặng sửa-trị nó.
Xác-thân vốn biếng-nhác hay lánh nặng, tìm nhẹ, thích ăn món ngon, vật lạ, ngủ-nghê, chơi-bời, ít muốn ra công giúp-đỡ ai cả.
Ta phải huấn-luyện nó như tập rèn một con thú cho siêng-năng, giỏi-giắn để giúp ích cho ta trong công việc hằng ngày.
Ta phải nuôi dưỡng nó với những đồ ăn uống tinh-khiết như gạo lứt (nên bỏ tuyệt gạo trắng), muối đen, đường mỡ gà (1) [(1) Đường trắng hết chất bổ rồi và còn độc nữa như lời của Bác sĩ P. Carton đã nói)], mật ong, rau trái. Bớt thịt, cá lần lần.
Bỏ tuyệt thuốc lá, thuốc phiện, các chất ma túyvà rượu bất cứ dưới hình thức nào.
Tập thể-dục tùy theo tuổi-tác và sức-khỏe. Hoàn-toàn sạch-sẽ. Từ miếng ăn, giấc ngũ cho tới những hành-động phải có điều-độ, đừng phí sức.
Nói tóm lại, giữ đúng phép vệ-sinh thì có thể tránh được nhiều chứng bịnh hiểm-nghèo và thêm tuổi thọ. Mặc dù có số mạng, nhưng cũng có tự-do ý-chí, nói một cách khác, có Trời mà cũng có ta vậy. Không phải cái chi xảy đến cũng đổ thừa cho có số mạng cả.
II
CÁI PHÁCH (DOUBLE ÉTHÉRIQUE)
Xác-thân còn một phần nữa tối quan-trọng vì nó có ảnh-hưởng tới sự sanh-tồn của xác-thân. Ấy là cái Phách.
Cái Phách làm bằng 4 chất dĩ-thái hồng-trần (ethers physiques) và bởi nó giống hệt con người cho nên mới gọi nó là Double éthérique. Màu nó xám tím hay xám xanh tùy theo người.
Nó xâm nhập các tạng-phủ con người và ló ra khỏi thân mình lối 6 ly, nhưng nó chiếu ngang ra những lằn sanh-lực dài lối một tấc rưởi bao chung quanh mình. Những lằn sanh-lực nầy làm ra hào-quang của sự khương-kiện (aura de santé). Khi con người đau thì những làn hào-quang nầy dọi ngã xuống đất. Vì thế người có thần-nhãn nhìn vô cái Phách thì biết được sức-khõe của con người ra sao.
CÁI CHI CÓ ẢNH-HƯỞNG TỚI CÁI PHÁCH
Sự nóng, sự lạnh, các thứ khí, các thứ hơi, từ điện, thuốc mê, thuốc lá, các chất ma túy, vật thực, rượu, thuốc men . . . đều có ảnh-hưởng đến cái Phách.
SANH-LỰC LÀ GÌ ?
Sanh-lực tiếng Phạn là Prana, là một thứ thần-lực do Đức Thái-Dương Thượng-Đế ban rãi ra. Ở cõi nào, cảnh nào cũng có sanh-lực Prana. Nó là sự sống, không có nó, không có sự sống của các hình thể.
Tại cõi trần sanh lực Prana từ mặt trời tuôn xuống. Nó kết-hợp chặt-chẽ những nguyên-tử đặng làm ra các cơ-quan trong mình con người và loài vật. Nhờ có nó mà con người và loài vật mới có cảm-giác. Nó lìa bỏ xác thân rồi thì các tế-bào đều rã ra những nguyên-tử như trước.
Nói tóm lại, là trong vật thực, trong không khí, trong thuốc men, trong thảo mộc, kim thạch đều có sanh-lực Prana.
Cái máy để thâu nhận và ban phát sanh-lực Prana khắp châu thân đặng nuôi sống con người và vật là Cái Phách.
Khi con người ngửi thuốc mê thì cái Phách xuất ra khỏi xác thân, trong một thời gian, sanh-lực không vô mình được như trước, cho nên con người hôn mê, dầu bị mổ xẻ cũng không biếr đau đớn chi cả. Chừng dã thuốc mê rồi, cái Phách trở vô nhập xác, con người lần lần tỉnh lại.
SỰ TINH-KHIẾT CỦA CÁI PHÁCH
Cái Phách liên-quan mật-thiết với xác-thân. Nếu các thân tinh-khiết thì nó tinh-khiết. xác -thân ô trược thì nó ô trược.
Ta nên biết rằng : máu huyết xương thịt của con thú đều chứa đựng từ-điển và tánh-tình của nó. Nếu ta ăn thịt nó, thì máu huyết nó, xương thịt nó, từ-điển nó và tánh-tình nó biến thành máu huyết ta, từ-điển ta , tánh-tình ta. Ta bị nó nhiễm rồi. Vì lẽ đó mà người ta mới nói : “THỨC ĂN CÓ ẢNH-HƯỞNG ĐẾN TÁNH-TÌNH VÀ PHONG-TỤC CỦA DÂN CHÚNG”. Đúng vậy.
Thật ra ăn chay trường được là đều tốt hơn hết.
Nếu có thể, thì mổi ngày đều tắm gội, quần áo giữ thật sạch-sẽ. Móng tay, móng chơn đều cắt cụt, đừng để đóng đất đen thui.
Từ-điển của ta theo 10 ngón tay và 10 ngón chơn mà xẹt ra ngoài. Nếu tay chơn ta, quần áo ta, dơ dáy thì từ-điển của ta cũng hóa ra hôi hám vậy. Nó sẽ nhiểm những người lại gần ta. Ta sẽ mắc tội trời, chạy trốn đâu cũng không khỏi. Đùng cho việc đó là chuyện nhỏ mọn không đáng kể. Ở trong một thế-giới mà định-luật chi-phối thì không có chi là không quan-trọng, dầu việc lớn hay việc nhỏ cũng vậy. Nội một việc nhỏ mọn như nhổ một cây cỏ và vô tình giết một con kiến cũng phạm tội sát sanh rồi. Chúng ta nên đọc những quyển giải về nhân-quả rồi suy-nghĩ thêm thì sẽ hiểu nhiều. Cũng phải tập phân-biện cái nào hữu-ích nhiều, cái nào hữu-ích ít mà hành-động.
III
CÁI VÍA
Thể thứ Ba là Cái Vía. Nó giống hệt con người, nó làm bằng 7 chất thanh-khí của cõi Trung-Giới pha lẫn rất nhiều tính-chất dục-vọng tức là tính-chất thứ ba (3è essence élémentale ou elemental du désir).
Nhờ cái Vía, con người mới kinh-nghiệm được đủ hết các thứ tình-cảm, từ những thứ cao-thượng tốt đẹp cho tới những thứ thấp hèn, đê-tiện.
Chất khí làm cái Vía rút vô trong mình con người hết 99 phần 100, chỉ còn có 1 phần 100 ló ra ngoài làm ra hào-quang cái vía.
MÀU SẮC CÁI VÍA
Cái Vía có màu sắc vì mỗi tánh-tình của con người đều hiện ra bằng một màu trong cái Vía. Nếu tánh-tình tốt thì màu sắc đẹp đẽ, còn tánh-tình xấu thì màu sắc đen tối.
Tỷ như : Tánh-tình nham-hiểm thì hiện ra một đám mây mù đen kịt.
Trong lúc giận dữ thì trong Vía hiện ra những quần đen có những lằn đỏ nhọn như mũi tên.
Đám mây đỏ hồng là hay giận dũi.
Màu đỏ cam là kiêu-căng.
Màu vàng là khôn-ngoan.
Màu hường là yêu thương, vân vân .
LÀM SAO THẤY ĐƯỢC MẤY MÀU NẦY ?
Muốn thấy được mấy màu nầy thì phải có Thần-nhãn.
Thần-nhãn là gì ? Thần-nhãn là một cách rung động của cái Vía ứng đáp được với những lằn sóng rung động của cõi Trung-Giới.
Chung quanh ta có không biết bao nhiêu những lằn sóng rung động : có thứ dài, có thứ ngắn, có thứ mau lẹ, có thứ chậm-chạp vân vân . . .
Nói tóm lại : “Tất cả đều là những sự rung động”.
Chúng ta ứng-đáp đưọc một số rất nhỏ những lằn sóng nầy làm ra điện. ánh-sáng, âm-thanh, nóng lạnh, vân vân . . .
Người ta nói : Thần Thánh biết được lòng dạ con người. Mới nghe qua không biết tại sao vậy. Sau mới rõ lại là : ý muốn, tánh tình của con người đều có hình dạng. Thần Thánh có Thần-nhãn nên thấy được con người cầu cái chi, tưởng cái chi.
Nếu biết phương-pháp tập-luyện thì có Thần-nhãn ; nhưng lúc ban đầu luôn luôn phải lầm-lạc bởi vì chất khí làm cõi Trung-Giới trong-trẻo và rung động mau lẹ ; thường thường thì thấy hình ngược. Phải có những nhà Đạo-đức lão-luyện chỉ dạy mới khỏi sai-siển.
Cũng nên biết chất làm cái Vía trong mình con người luôn luôn chạy từ trên đầu xuống chơn, rồi từ chơn trở lên đầu. Vì thế trong cái Vía trên đầu, dưới chơn, bên hông, trước mặt sau lưng đều thấy được cả, chớ không phải như con mắt mình vậy đâu.
PHẬN-SỰ CỦA CÁI VÍA
Xin kể 3 phận-sự của cái Vía.
1. Làm cho con người biết cảm-động.
2. Làm trung gian giữa linh-hồn và xác thân ở cõi Trần.
3. Làm một thể độc-lập để con người dùng khi qua cõi Trung-Giới.
Sanh-lực Prana vô cái Vía qua cái Phách rồi mới chạy khắp châu thân đặng nuôi các tế-bào.
Những sự rung động ở ngoại-giới theo ngũ-quan vô cái óc xác thịt qua Cái Phách rồi mới tới cái Vía.
Cái Vía biến-đổi chúng thành ra những cảm-giác rồi đưa cho cái Trí xem xét trước khi linh-hồn nhận-định điều đó.
Trái lại, mạng lịnh của linh-hồn phải qua cái Trí, cái Vía, cái Phách, cái óc xác thịt rồi mới có sự thi-hành.
Vì vậy người ta mới gọi cái Vía là Cái Cầu bắt cho linh-hồn thông-thương với cõi Trần. Nói thì nghe lâu chớ sự rung động chuyển giao lẹ như chớp nháng, có lẽ còn hơn 300.000 cây số trong một giây đồng hồ, xuyên qua mấy thể đều xỏ rế với nhau và đồng ở một chổ với nhau.
LÀM MỘT THỂ ĐỘC-LẬP
Lúc ta thức dậy ta dùng cái Vía để biểu-hiện tình cảm và ý muốn.
Chừng ta ngủ, ta ở trong cái Vía qua cõi Trung-Giới. Cái Vía thành ra một thể độc-lập. Nhưng ta chưa có thể dùng cái Vía như dùng xác-thân bởi vì ta chưa thức tỉnh ở cõi Trung-Giới, ta mơ mơ màng màng, không khác nào ta ngủ vậy.
CHIÊM-BAO LINH
Trừ ra một vài trường-hợp linh-hồn thấy có chuyện quan-hệ tới xác thân nên làm cho cái Vía nhớ đặng truyền lại cái óc xác-thịt. Ta gọi sự thấy đó là chiêm-bao linh. Những điều ta thấy sẽ xảy ra thật trong vài ngày sau hoặc một ít lâu.
Còn bao nhiêu điềm chiêm-bao khác là những chiêm-bao mộng mị không đáng kể.
HỌC PHÉP XUẤT VÍA
Tuy nhiên có những phương-pháp làm cho cái Vía xuất ra khỏi xác chừng nào cũng được và xử-dụng nó như xử-dụng xác-thân đặng làm những điều mình muốn. Người ta gọi đó là : Xuất-Vía hay là Thân ngoại hữu thân.
Nhưng mà rất nguy hiểm khi làm cho cái Vía đặc lại giống như hình con người, có đủ mặt mũi, tay chơn, đi đứng, nói năng, chuyện vãn như người thật vậy. Bởi vì trong lúc nầy mà cái Vía bị gai đâm hay bị ai đánh chổ nào thì xác thân nằm ở nhà bị vết tích tại chổ đó.
Trừ ra trường-hợp biết cách lấy 4 chất dỉ-thái làm ra một cái hình giả như các nhà Huyền-Bí-Học lão-luyện hay là đệ-tử Chơn-sư thì cái hình giả không có liên-lạc chi với xác thiệt cả. Đánh đập hình giả nầy như đánh vào gió xác thiệt không hề hấn chi đâu. (Xin xem quyển cái Vía và quyển Minh-Triết Thiêng-Liêng I của tôi có nói nhiều trường hợp xuất Vía).
TÁNH NẾT CÁI VÍA
Cái Vía chứa nhiều tinh-chất thứ ba hay là tinh-chất dục-vọng, mà tinh-chất nầy sau đầu thai làm kim-thạch cho nên nó ưa những sự rung-động dữ-dội. Nó dục cho con người nóng-nảy, giận-hờn, tham-lam, ham-hố, xảo-trá, quỉ-quyệt, hung-bạo, cộc-cằn, đắm mê tửu-sắc ; nói tóm lại là các nết hư, tật xấu rất gớm-ghiết, ghê tởm. Không phải là nó muốn hại con người, song những sự rung-động mạnh-bạo giúp nó mau tiến-hóa, mau cứng rắn.
PHƯƠNG-PHÁP SỬA TRỊ CÁI VÍA
Muốn sửa trị cái Vía thì phải tập những tánh tốt đối-lập với các tật xấu của mình đã có.
Phương-pháp tập luyện, Đức Bà A. Besant có chỉ dạy trong hai quyển sau đây :
1. Đơì sống Huyền-bí của con người và
2. Con đường của người Đệ-tử.
Tôi có bàn những phương-pháp Tập-luyện đó trong quyển Đạo-Lý thực-hành của tôi, và xin xem quyển ba và quyển tư của bộ nầy.
Sự rèn-luyện tánh nết đòi hỏi một thời-gian khá lâu. Phải bền-chí và cố-gắng từ 25, 30 năm và kéo dài từ kiếp nầy qua kiếp kia. Chớ nào phải có một vài năm mà được đắc-đạo thành chánh-quả.
Tại sao như thế ?
Bởi vì cả ngàn kiếp trước, ta đồng-hóa với cái Vía, những điều cái Vía muốn, ta tưởng là ta muốn cho nên ta thật-hành ngay. Vì vậy ta gây ra không biết bao nhiêu quả, dữ nhiều, lành ít. Ta phải đầu thai đi đầu thai lại đặng thanh-toán những mối nợ-nần. Mỗi kiếp, ta trả chưa hết quả cũ mà lại còn tạo ra những quả mới khác nữa.
Thế thì, làm chủ 3 thể : Thân, Vía, Trí không phải là việc dễ-dàng. Nếu không sử trị được chúng thì khó tiến mau đến mục-đích đã định sẳn cho nhơn-loại trong Thái-Dương-Hệ nầy.
Tam Bành Lục Tặc mà người tu hành thường nghe nói là ba thể : Thân, Vía, Trí chớ không có ai vô đó. Chúng ở trong mình mình đây.
IV
HẠ-TRÍ
Thể thứ tư là Hạ-Trí.
Hạ-Trí làm bằng 4 chất Thượng-thanh-khí thấp của cõi Thượng-giới cũng gọi là chất Trí-tuệ, ấy là : Chất thứ tư, chất thứ năm, chất thứ sáu và chất thứ bảy và có pha nhiều tinh-chất thứ nhì gọi là tinh-chất Trí-tuệ ở cõi Hạ-Thiên.
Đối với người có Huệ-nhãn thì cái Trí mường-tượng đám sương mù dày đặc giống hình người. Có một vòng tròn bao chung quanh trong-trẻo hơn và làm ra hào-quang cái Trí.
Càng ngày con người càng mở-mang thì cái Trí càng ngày càng lớn.
NHỮNG KHOẢNH CỦA CÁI TRÍ
Cái Trí chia ra nhiều khoảnh, mỗi khoảnh đối-chiếu với một phần của cái óc xác thịt và chịu ảnh-hưởng của một thứ tư-tưởng đặc-biệt. Tỷ như : Có khoảnh chịu ảnh-hưởng của tư-tưởng khoa-học, có khoảnh chịu ảnh-hưởng của tư-tưởng mỹ-thuật, có khoảnh chịu ảnh-hưởng của tư-tưởng đạo-đức vân vân.
Bởi chưng những khoảnh nầy chưa mơ-mang đồng điều cho nên mới có những người giởi toán mà vẽ rất dở, có người giởi âm-nhạc mà không biết chi về lý-hoá vân vân.
Cái Trí không có ngũ-quan, nó chỉ có một quan mà thôi để tổng-hợp những cảm-giác do cái Trí đưa vô rồi làm ra một thứ khái-niệm duy nhứt.
Người ta gọi nó là Chúa-tể của giác-quan hay là Giác-quan thứ sáu.
PHẬN-SỰ CỦA CÁI TRÍ
Cái Trí có nhiều phận-sự như :
a. Sanh ra những tư-tưởng hữu-hình.
b. Học-hỏi, phân-biện, xét-đoán, ghi nhớ, tưởng-tượng.
c. Làm một thể độc-lập cho con người dùng khi lên cõi Hạ-Thiên của Thượng-giới.
HIỆU QUẢ CỦA TƯ-TƯỞNG
Mỗi lần ta suy-nghĩ hay tư-tưởng thì cái Trí của ta rung động. Sự rung động nầy sanh ra hai hiệu-quả :
a. Những lằn sóng tư-tưởng (Ondes de pensée).
b. Hình tư-tưởng (Formes pensée)
Hai hiệu quả nầy khác nhau.
A. NHỮNG LẰN SÓNG TƯ-TƯỞNG
Muốn hiểu sao gọi là lằn sóng tư-tưởng thì ta hãy ném một cục đá xuống nước. Cục đá chìm xuống thì ta thấy những lằn sóng nổi lên lấy chỗ cục đá rớt làm trung tâm, những lằn sóng nầy càng lớn ra xa rồi một chập sau thì mất dạng.
Cũng thế đó, tư-tưởng của ta sanh ra những lằn sóng trong cõi Trí-Tuệ rồi lan ra khắp nơi. Chúng có màu sắc nhưng càng đi xa, màu sắc nầy càng phai lợt và sức mạnh cũng giảm đi lần lần.
TÁNH-CÁCH ĐẶC-BIỆT CỦA LẰN SÓNG TƯ-TƯỞNG
Lằn sóng tư-tưởng chỉ truyền ra tánh-cách của tư-tưởng chớ không phải vấn-đề tư-tưởng.
Thí-dụ : Người Ấn-Độ thiền-định về đức Krishna, những lằn sóng tư-tưởng của anh sanh ra đi khuyến-khích lòng tín-ngưỡng của những kẻ ở chung quanh. Nếu nó gặp người Công-giáo thì nó dục y nhớ tới Đức Ky-Tô và tôn-kính Ngài.
Khi nó vô trí người Phật-giáo thì nó làm cho lòng sùng-bái Đức Phật của y càng thêm mạnh-mẽ chớ không phải đụng ai nó cũng dục cho nhớ tới Đức Krishna là vấn-đề tư-tưởng đâu.
Trái lại khi nó gặp một người thuộc về phái duy-vật thì nó làm cho phần cao thượng của cái Trí y mở rộng ra.
HÌNH TƯ-TƯỞNG
Sự rung động của cái Trí còn rút chất Trí-tuệ làm ra một cái hình gọi là hình Tư-tưởng.
Thế nên khi ta tưởng tới cái nón thì hình cái nón hiện ra trước mặt ta, song ta không thấy nó.
Hình nầy là một sanh vật, cũng sống lâu cũng thác yểu, cũng mạnh, cũng yếu như con người vậy. Muốn cho hình tư-tưởng sống lâu và mạnh-mẽ thì phải tưởng tới nó luôn luôn bởi vì tư-tưởng là đố ăn nuôi dưỡng nó. Không có đồ ăn, nó sẽ đói, yếu sức rồi thác. Thác là rã ra chất Trí-tuệ như trước.
Bây giờ, thí-dụ ta tưởng tới một người nào đó thì tư-tưởng của ta hóa hình đi tới ở một bên người đó rồi. Nếu ta chỉ tưởng có một lần thôi thì chẳng bao lâu hình Tư-tưởng nầy sẽ tan ra chất Trí-tuệ như trước. Số mạng của những tư-tưởng bông-lông, mơ-màng là như thế đó. Trái lại, nếu mỗi ngày ta mỗi tưởng vài ba lần như vậy lâu năm chầy tháng thì hình Tư-tưỏng nầy sẽ sống lâu.
Khi luyện tập tư-tưởng cho mạnh-mẽ rồi ta có thể sai nó đi làm những công việc của ta muốn.
Xin nhớ ba điều-kiện thành lập những hình Tư-tưởng như sau đây
1. Cái Phẩm của tư-tưởng làm ra màu sắc.
2. Bản-tánh của tư-tưởng làm ra hình-dạng.
3. Sự đích-xác của tư-tưởng làm ra châu-vi.
MÀU SẮC CỦA NHỮNG HÌNH TƯ-TƯỞNG
Hình tư-tưởng có màu sắc. Xin nói ý-nghĩa vài màu thôi. Tỷ như : Tình yêu thương sanh ra màu hường sáng-rỡ.
Có lòng từ-bi bác-ái, thì màu vàng trong-trẻo như cây ngọc-trâm hoa (primevèro).
Màu vàng chỉ về trí-tuệ nhưng biến-đổi khác nhau tùy theo tính-cách của tư-tưởng.
Nếu lo mở-mang trí-thức có mục-đích ích-kỷ thì màu vàng trở nên sậm và tối.
Kiêu-căng, tham-vọng thì màu đỏ cam, vân vân . . .
Đây là nói một cách miễn cưỡng, phải mở Thiên-nhãn và có kinh-nghiệm mới thật hiểu được ý-nghĩa của các màu và không lầm-lạc.
SỰ CHỌN LỰA TƯ-TƯỞNG
Sự chọn lựa tư-tưởng còn quan-trọng và cần-thiết hơn sự lựa chọn đồ ăn bởi vì tư-tưởng có quyền-năng sửa đổi số-mạng ta chẳng những kiếp nầy mà tới kiếp sau nữa.
Muốn biết vì lý-do nào thì phải biết sự ích-lợi của tư-tưởng tốt và cái tai-hại của tư-tưởng xấu
ẢNH-HƯỞNG CỦA TƯ-TƯỞNG XẤU
Mỗi lần ta sanh ra một tư-tưởng xấu thì ta phạm phải ba tội một lượt :
1. Tội thứ nhứt : Ta làm hại ta trước hết vì cái Trí ta trở nên xấu.
2. Tội thứ nhì : Ta hại những người ở chung quanh ta.
3. Ta thêm những sự đau-khổ cho đời.
A. TA HẠI TA TRƯỚC HẾT
Khi ta sanh ra một tư-tưởng xấu thì chất Thượng-thanh-khí tốt ở trong trí ta bay ra ngoài, chất Thượng-thanh-khí xấu hạp với tư-tưởng xấu đó ở ngoài bay vô choán chỗ Thượng-thanh-khí tốt mới vừa bay ra. Nếu ngày nầy qua ngày kia ta nuôi cái trí ta với những tư-tưởng thấp hèn thì màu sắc nó trở nên đen tối. Người có Huệ-nhãn dòm vô thấy một cảnh tượng u-buồn đáng thương vô cùng. Tâm địa ta cũng vì đó mà trở nên xấu-xa. Ta sẽ tiến-hóa chậm.
B. TA HẠI NHỮNG NGƯỜI Ở CHUNG QUANH TA
Tư-tưởng xấu của ta bay ra ngoài rồi vô trí những người ở chung quanh, xúi họ nhớ tới những điều quấy-quá. Nếu nó gặp người nào đã có sẳn tánh xấu như nó thì nó thêm sức cho tánh xấu đó, nó lại khươi mầm các tánh xấu khác chưa hiện ra. Rồi tới phiên mấy người bị tư-tưởng nầy nhiễm lại sanh ra những tư-tưởng xấu khác đồng bản-tánh với những tư-tưởng đã vô trí họ. Cứ tiếp tục như thế năm nầy qua năm nọ.
C. TA THÊM NHỮNG SỰ KHỔ CHO ĐỜI
Tư-tưởng xấu của ta hiệp với những tư-tưởng xấu đồng một loại với nó làm ra một hình
tư tưởng gọi là Liên-Hiệp Tư-Tưởng (Egrégore). Hình Tư-Tưởng nầy mạnh-mẽ, sống lâu và rất
quỉ-quyệt. Nó đi xúi dục người ta làm ác, không phải một người mà cả trăm cả ngàn người như
vậy. Rồi cả trăm cả ngàn người nầy lại sanh ra những Hình Tư-Tưởng Liên-Hiệp ác độc khác nữa. Cứ tiếp-tục như thế từ đời nầy qua đời kia. Bây giờ ta hãy thử nghĩ : Một tư-tưởng ta cho là mẩy-mún có thể biến thành một tai-họa lớn lao cho đời nếu ta không trừ-khử nó ngay tức khắc khi nó vừa sanh ra. Đây có nghĩa là khi ta mới sanh ra một tư-tưởng quấy-quá thì lập tức phải sanh ra một tư-tưởng tốt khác đối-lập với nó đặng trừ-khử cái hiệu-quả của nó đi. Cách nầy cũng gọi là phương-pháp xua đuổi một tư-tưởng xấu.
Thế nên chúng ta khá thận-trọng trong khi tư-tưởng vì ta sẽ chia-sớt quả ác với những người bị tư-tưởng ta xúi-dục làm ác. Quả nầy gọi là cộng-nghiệp (Karma collectif). Và đừng quên rằng khi ta sanh ra một tư-tưỏng rồi thì nó bắt cái Trí ta nhớ tới nó mãi, có dịp thì hành-động liền.
ẢNH-HƯỞNG CỦA TƯ-TƯỞNG TỐT ĐẸP
Trái lại, mỗi lần ta sanh ra một tư-tưởng tốt đẹp ta được ba điều lợi :
Một là : Ta làm cho cái Trí ta trở nên tốt đẹp.
Hai là : Ta giúp ích cho những người ở chung quanh ta.
Ba là : Ta giúp ích cho đời.
A. TA LÀM CHO CÁI TRÍ TA TRỞ NÊN TỐT ĐẸP
Khi ta sanh ra một tư-tưởng tốt thì một phần chất-khí xấu trong trí ta bay ra ngoài. Chất Thượng-Thanh-khí tốt hạp với tư-tưởng tốt đó bay vô trí ta choán chổ của chất khí xấu mới ra đi.
Nếu ta cứ suy-nghĩ tới điều thiện lâu năm chầy tháng thì cái Trí ta chứa đầy những chất khí tốt. Nó sẽ chiếu ra nhiều màu sắc rực-rỡ làm đẹp mắt những vị có Huệ-nhãn và tâm địa của ta cũng trở nên tốt đẹp. Ta đã thành một vị Thiện-nhân.
B. TA GIÚP ÍCH NHỮNG NGƯỜI Ở CHUNG QUANH TA
Những người ở chung quanh ta nhờ tư-tưởng tốt của ta làm nẩy nở mầm các tánh tốt còn tiềm-tàng ở trong lòng họ, khuyến-khích họ làm những việc lành, việc phải.
Nhờ như thế, họ lần lần trở thành những người tốt.
C. TA GIÚP ÍCH CHO ĐỜI
Tư-tưởng tốt lành của ta hiệp với những tư-tưởng tốt lành khác đồng bản-tánh với nó làm ra một Hình Liên-Hiệp Tư-Tưởng. Hình Tư-Tưởng Liên-Hiệp nầy là một vị Phúc-Thần đi khuyến-khích người ta đi làm những việc phước thiện.
Nhưng nếu ngày nay nhơn-loại còn đau-khổ nhiều là tại những vị Phúc-Thần nầy rất ít và cảm-hóa thiên-hạ một cách cực-kỳ khó-khăn bởi vì người ta làm việc ác dễ, làm việc thiện khó. Hầu hết chưa chịu tập tánh tự-chủ dầu biết phương-pháp cũng vậy và cứ làm theo ý-muốn của mình bất chấp những lời dạy của các vị Thánh-Nhơn Hiền-Triết.
Nếu Sông Duyên cứ tràn đầy mãi thì biết tới ngày nào chúng ta mới được hoàn-toàn giải-thoát, khỏi đọa luân-hồi và thành chánh quả.
TƯ-TƯỞNG BIẾN THÀNH SỰ HÀNH-ĐỘNG
Đùng quên rằng người ta tưởng trước rồi mới hành-động sau, nghĩa là tư-tưởng sẽ biến thành sự hành-động khi có dịp đưa tới.
Vì lẽ nầy mà đoạn trước tôi đã nói : “Nếu ơ hờ ta sanh ra một tư-tưởng bất-chánh thì lập tức ta phải sanh ra một tư-tưởng chơn chánh đối-lập đặng diệt trừ hiệu-quả của nó. Đây có nghĩa là : không để tư-tưởng bất chánh nầy xúi dục ta làm những điều quấy khi có cơ-hội và cùng một lúc phá tan nghiệp quả xấu mới vừa gây ra”.
Nếu ta làm việc mà không cần suy-nghĩ là tại mấy ngày trước, mấy tháng trước, có khi mấy kiếp trước, ta đã suy-nghĩ về việc đó rồi. Nay có cơ-hội thì thực-hành liền.
Quả nầy gọi là quả muồi, đáng sợ lắm nếu nó là quả xấu.
TÁNH NẾT HẠ-TRÍ
Cái Trí tánh nết lao-chao, kiêu-căng, phách-lối. Nó tự-phụ hơn người, coi thường kẻ khác. Nó tưởng cái nầy rồi bắt qua cái kia liền, không khác con khỉ nhảy-nhót trên cành. Vì vậy người ta mới gọi là Tâm Viên-Ý mã.
Nhưng cái tai-hại lớn lao hơn hết là nó dựng lên một bức rào chia rẽ, ích-kỷ, giữa “Người và Ta”. Nó nói : “Tôi là Tôi” “Anh là Anh”.
Các sự đau-khổ đều do đây mà sanh ra.
SỬA-TRỊ CÁI TRÍ
Muốn cho cái Trí trở thành một khí-cụ tốt lành để cho con người xử-dụng thì phải biết Phương-Pháp sửa trị nó.
Phương-pháp đó là Định-Trí và Tham-Thiền.