Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi
niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thỏa mãn các nhu cầu vật chất vì
chết là hết. Không có Thượng Ðế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Cách đây
không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa Kỳ đã tuyên bố:"Thượng Ðế đã chết."
Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng Ðế
còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nỗi. Một nhà
Thiên văn Học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết: "Tôi đã dùng
kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái dất hàng triệu
năm ánh sáng mà nào có thấy Thiên đường hay Thượng Ðế cư ngụ nơi nào?" Sự
ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ qúa trớn, thách
đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh,
giải thích tất cả thì một sự kiện xảy ra: Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu
vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. trong buổi viếng thăm Ðại
học Oxford , vua
Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ nầy đã làm đảo lộn quan niệm khoa
học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hóa học, kể cả
những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ
đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do Bác sĩ Sir
Claude Wade khám ngiệm ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong
suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Ðạo sĩ còn biểu
diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia.
Ðiều này gây sôi nỗi dư luận lúc đó, Hội Khoa học Hoàng Gia đã phải triệu tập
một ủy ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học
gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn Ðộ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải
thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẫn rõ
rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối: Không chấp nhận
bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Ðể soạn thảo bản
tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều
mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi
tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới dược
ghi nhận vào biên bản chính. Ðiền này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không
thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải
thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.
Khi ra đi, họ
không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho
biết: "Phương Ðông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây
Phương nghiên cứu, học hỏi. Ðã đến lúc người Tây Phương phải quay về Ðông
Phương để trở về với quê hương tinh thần." Ðiều đáng tiếc là sự trở về của
phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành
kiến hẹp hoài. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố
thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, Trưởng phái đòan, giáo sư
Spalding đã cho xuất bản bộ sách " Journey to the East" và nó đã gây
ngay một dư luận hết sức sôi nỗi. Người ta vội tìm đến những người trong phái
đoàn thì được biết họ đã rời bỏ Âu Châu để sống đời tu sĩ trong dãy Tuyết Sơn.
Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách nầy đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua
Ấn Ðộ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir
Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt diều tra của ký giả
Paul Brunton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Ðông Phương và xác
nhận giá trị cuộc nghiên cứu này...
HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ÐÔNG
Nguyên tác: Spalding.
Bản dịch: Nguyên Phong.
Nguyên tác: Spalding.
Bản dịch: Nguyên Phong.
Một Người Ấn Lạ Kỳ
Ấn Ðộ là xứ có
rất nhiền tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất
mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn hường tự hào rằng văn hóa
của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ nầy được thừa hưởng một kho tàng
minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ
cho phái đoàn đến nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.
Tuy nhiên, sau
hai năm du hành khắp Ấn Ðộ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền
đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thỏa
mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những
điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần
thánh hóa vài huyền thoại để đề cao văn hóa xứ họ. Ða số tu sĩ đều khoe khoang
các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các
đạo quả, ai cũng xưng là Hiền Triết (Rishi), Sư Tổ (Guru) hay Ðại Ðức (Swami),
thậm chí có người xưng là Thánh Nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn Ðộ giáo không có
một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên Chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ
ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh
tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất mà
có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc
lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu Châu. Các giáo sĩ
mạnh ai giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng
dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước
lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất
thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý
của Thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một
kết qủa mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rối rắm không biết đâu là
đúng, là sai. Hội Khoa Học Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt trên căn bản
trên một nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn nầy áp dụng sẽ gặp
nhiều trở ngại vì văn hóa Ấn Ðộ và Âu Châu khác hẳn nhau. Người dân xứ nầy chấp
nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo
sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một
cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.
Thất vọng về
cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang
thang đi dạo trong thành Benares . Giữa rừng
người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cỡi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một
con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngững cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên
bổng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngả. Ðám đông xúm lại xi xầm coi
bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bã á phiện và
được luyện tập cẩn thận... Khắp xứ Ấn, các trò bịp bợm nầy diễn ra không biết
bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên "cò mồi"
đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ và khuyến khích dân chúng ném
theo... Ðang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ
khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một
tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên
thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò
bịp bợm này. Người Ấn trả lời:
"Các vị
minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức
tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo
quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết
phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đã
gặp sở dĩ nổi tiếng, có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử qua các hình thức
quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài
một số "từ chương" trong kinh sách. Ðiều này một người thông minh có
thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã
gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?"
Giáo sư
Spalding ngạc nhiên:
"Tại sao
ông biết rõ như thế?"
Người Ấn mỉm
cười:
"Các ông
đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới
lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu Châu và kết luận rằng Á Châu chả có diều gì đáng học
hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để
tô điểm cho vẻ huyền bí Á Châu."
Giáo sư
Spalding mất bình tĩnh:
"Nhưng
tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế,
ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?"
Người Ấn nở
một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:
"Tư
tưởng, ông bạn thân mến có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không
gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một
thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh: 'Hãy Gõ Cửa Rồi
Cửa Sẽ Mở, Hãy Tìm Rồi Ngươi Sẽ Gặp.' Ðó là thông điệp của một vị chân sư nhờ
tôi chuyển giao."
Sự kiện người
Ấn đứng giữa chợ Banares nhắc đến một câu trong Thánh Kinh làm giáo sư Spalding
ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồn điện cao
thế. Ông lắp bắp:
"Nhưng
làm sao chúng tôi biết các Ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm
trời đi gần hết các đô thị, làng mạc xứ Ấn..."
Người Ấn
nghiêm nghị trả lời:
"Hãy đến
Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy-Mã-Lạp-Sơn, các ông sẽ gặp những đạo
sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các
túp lều sơ sài hoặc ngồi thiền trong các dộng đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu
nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Ðó mới là những người dành
trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và
chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất... Nếu các ông muốn
nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất
vọng."
Người Ấn im
lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:
"Nhưng
nếu các ông muốn đi xa hơn nữa để tìm gặp các đấng chân sư (Rishi) thì các ông
còn mất nhiều thời gian nữa..."
Giáo sư
Spalding thắc mắc:
"Ông vừa
dùng danh từ Chân Sư, vậy chứ Chân Sư (Rishi) và Ðạo Sĩ (Yogi) khác nhau thế
nào?"
"Nếu ông
tin ở thuyết tiến hóa của Darwin
thì tôi xin tóm tắc: Sự tiến hóa của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân Sư
là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hóa trong khi Ðạo Sĩ chỉ mới
bắt đầu..."
"Như thế
thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?"
Người Ấn mỉm
cười khẽ lắc đầu:
"Chắc
chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con
đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Ðối
với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các Ngài phải làm.
Mục đích của con đường đạo là giải thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng
cao cả mà đức Chúa Jesus là một."
Giáo sư
Spalding cãi:
"Nhưng
Chúa Jesus đã từng làm các phép lạ."
Người Ấn bật
cười trả lời:
"Ông bạn
thân mến, bạn nghĩ rằng đức Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao?
Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hóa những người dân hiền
lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi."
Một lần nữa,
người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà gần như mọi người Tây
Phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:
"Thế tại
sao các đấng Chân Sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng?"
Người Ấn
nghiêm nghị:
"Ông nghĩ
rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng?
Nếu đấng
'Christ' hay đức Phật hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin
không? Có lẽ các Ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước
hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao? Ðiều này
chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc Ðạo biểu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng
các Ðấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?"
"Nhưng...
nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu?"
Người Ấn mỉm
cười:
"Vì không
biết rõ các Ngài nên thế gian không thể xét đoán các Ngài một cách đứng đắn. Ai
bảo rằng các Ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng
'Christ' vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có
tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có
thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các Ðấng cao cả
không dễ gì chúng ta hiểu thấu. Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các Ngài
phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng
thương yêu, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian.
Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa,
nhân loại còn ấu trĩ nên các Ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản,
hướng dẫn loài người. Ðến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự
lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm."
Giáo sư
Spalding suy nghĩ và hỏi:
"Lúc nãy
bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng
tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của Ngài được không?"
"Bạn thân
mến, tất cả đều do nhân duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các Ngài."
Nói xong,
người Ấn Ðộ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi
chợ thành phố Benares .
Còn
Tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét