Phù chú diệu thuật bí pháp (Secret Occultism)




Lời tựa
Tuy khoa học ngày nay đã rất phát triển, con người đã đi vào không trung, thám hiểm mặt trăng, nhưng cón có rất nhiều hiện tượng của giới tự nhiên mà khoa học chưa có lời giải đáp. Khoa học không phải là vạn năng, nếu như khi khoa học bó tay không có đáp án thì lại đem sự thần bí của không gian vũ trụ cùng với sự vi diệu cho là ấu trĩ, là hoang đường, không có căn cứ, cái này tựa như chẳng phải là là hành động của người tri thức vậy. Khi chúng ta không hiểu các sự vật, không đi sâu vào nghiên cứu để đưa ra kết luận thì không nên đánh giá một cách vội vàng để tránh khỏi khiến người khác chê cười. Tục ngữ có câu nói rất hay: người chưa bị ma trêu thì chưa biết được sự đáng sợ của ma, tôi đây đã từng bị ma trêu, vào một lần tôi ngẫu nhiên gặp được lão sư phụ của phái Bành Hồ truyền cho thủ ấn (ngón tay), mặt úp vào tường tu luyện, cái kiểu công lực này có lẽ đã đạt đến mức lửa trong lò thuần thanh, chân khiếu nhập thán. Có người từng hỏi tôi: “bùa chú” “thủ ấn” thực sự linh nghiệm chứ ?, nếu như dựa vào hình vẽ trên hồ lô, chiếu theo bức đồ kết thủ ấn thì có thể phát huy công hiệu, gọi thần minh đến được chăng ? Tôi đối với vấn đề quan trọng này xin tặng các vị độc giả một câu tâm pháp: “bùa là tâm bùa, ấn là tâm ấn”, chỉ cần lĩnh hội được 8 chữ này cùng với thực hành trong thực tiễn thì tin tưởng rằng bạn sẽ đạt được những bước tiến lớn của đại môn (cửa lớn) bùa chú học, còn việc thành tựu đến mức nào thì phải xem các vị độc giả tu trì như thế nào, chỉ cần chăm chỉ luyện tậm thì có công mài sắc có ngày nên kim.

  • Tín ngưỡng dân gian Đài Loan có thể phân làm bốn loại.
    Đạo sĩ: tục gọi là “Sư công”, đấy là người sùng phụng đạo giáo, ở Đài Loan có hai phái Thiên Sư phái và Lão quân phái, trước đây thấy nhiều, sau này ít thấy. Pháp sư: tức thầy làm phép, chuyên hành “Hồng đầu pháp” (Phép Hồng đầu) tự xưng sùng phụng “pháp giáo”, bản chất tương tự như thầy cúng. Kê đồng: ấy là phụ thể của thần linh, thay cho thần dạy bảo Vương di: chủ yếu là phép chiêu hồn và quan vong của vu nữ, có tính chất tương tự như lưu phái của kinh mẫu.

  • Kê đồng – người kết nối giữa người và quỷ
  • Nơi nào đó có một đạo đàn thiết lập đã lâu, mỗi ngày sáng trưa tối đều đến đạo tràng một lần. Đến để cầu thần hỏi quẻ, trước tiên chúng ta cần ra phố mua hoa quả, bánh kẹo cùng tiền giấy vãng mã, đèn nến kính thần, thuận tay lấy một con bài, sau đó ở hai bên đàn đợi kêu số hỏi thần. Kê đồng của đàn đạo này là một người trung niên, có trách nhiệm truyền đạt lại những lời thần nói, đến hỏi thần đại bộ phận là hỏi bệnh cầu thuốc, Kê đồng căn cứ vào bệnh tình mà bệnh nhân thuật lại mà đọc tên thuốc ra. Bên cạnh để một cái bút để viết tên thuốc, sau đó đến chỗ bọn họ chỉ định cửa hàng thuốc để người bệnh đi mua thuốc. Sau đó Kê đồng sẽ bảo người cầu thuốc hai ngày sau lại đến. Thông thường Kê đồng đại đa số có hiểu biết chút ít về bệnh lý và phương thuốc, các bệnh lý được chỉ bảo đa phần là trị thương hàn, cảm mạo, giải nhiệt.., vì thế rất ít khi ảnh hưởng đến tính mệnh. Thứ nữa là do người ta tự đến, xem không đúng cũng không lo bị tranh cãi thị phi. Bệnh viện và phòng khám chỗ nào cũng có, nhưng có không ít người lại đến chỗ này hỏi bệnh, cái này và tâm lý có mỗi quan hệ rất chặt trẽ, bởi vì một người bình thường đối với thần linh thâm cao khó lường luôn bị một sức tín phục rất lớn. Vốn sinh, tai, bệnh hại của người ta trong cuộc đời là rất khó tránh, thần linh kê đơn thuốc lại dùng linh bùa đuổi tà trấn trạch, cái này là dùng phương pháp đánh vào lòng người bị bệnh. Còn một loại nữa gọi là phạm sát, ví như trên ấn đường của người ấy phát đen, gân xanh nổi lên, ăn không ngon, ngủ không yên, hay mơ ngủ, Kê đồng sẽ bảo bạn phạm phải hung sát hoặc ma sát, tức là xung phạm phải người chết, nên phải tế bái cô hồn dã quỷ để “thu hồn”, về sau mới có thể tránh tai họa. Trẻ con “thu hồn” tương đối dễ, tự chuẩn bị một bát cơm, dùng áo của người bị mắc bệnh phải bọc trùm lên, Kê đồng đốt ba que hương cắm lên, miệng niệm chú, toàn thân người mắc bệnh rung mạnh, sau đó bỏ áo ra, thì trên cơm xuất hiện những đường vân chỉ điểm bến mê, cần phải chuẩn thức ăn tế bái, cái bát cơm kia là thù lao của Kê đồng.Người lớn thu hồn thì rất phức tạp, cho nên dụng cụ cũng rất nhiều, tốn nhiều công sức nên cần mọi người giúp đỡ một tay. Kê đồng một mặt khua kiếm giơ roi làm phép, người nhà kêu tính danh người bị bệnh, gọi ba hồn bảy vía cùng thần minh quay về thân, cứ làm thế liên tục cho đên khi nồi lên ba cái “thưởng bôi” thì mới đại công cáo thành. Chúng ta là một quốc gia tự do tín ngưỡng, nhưng quá nửa là mê tín thì ngu ngốc chẳng gì bằng. Sự việc chẳng phân tích tỉ mỉ kĩ lưỡng, bệnh chẳng phân lớn nhỏ, tất cả đều hỏi ở thần. Chẳng may gặp phải Kê đồng bất lương thì khuynh gia bại sản, chó gà không yên, tiền mất tật mang. Có bệnh mà không kịp thời chữa trị, bệnh chạy khắp cơ thể, thần minh không thể chữa trị, Kê đồng lại giải thích là mệnh trời khó tránh, bạn sao lại có thể hồ đồ như vậy.Tôi cho rằng tín ngưỡng cũng ở trong những giới hạn nhất định, tín ngưỡng có lý tính thì gọi là tín mà chẳng mê. Vả lại tôi cũng hết sức phản đối tín ngưỡng mù quáng, thái quá, mê tín “quỷ thần”, những người này rất dễ bị những kẻ giả danh thần thánh lợi dụng, lừa tiền bạc làm cho gia sản tán thất, vong thân. Trong xã hội có 1 mặt tà ác, có một mặt lương thiện, vốn tông giáo là khuyên con người làm điều thiện, có lòng nhân cứu thế, đối với xã hội có những cống hiến, công lao. Nhưng cũng có một số loại theo tà đạo, không học có thuật, thập khướu thông cửu khướu (nhất khiếu chẳng thông), giả danh tông giáo, cải trang làm thần làm quỷ, lừa tiền lừa sắc, coi mạng người như cỏ, đem sự nghiêm trang của đền miếu, sự thanh tịnh của đền miếu, của thiên giới biến thành khói đen chướng khí, ấy là cái họa của trăm họ, cái nguy của xã hội vậy. Người đời nay cần có tông giáo quan của đời này, giải thích rõ ràng về tông giáo, truy tìm nguốn gốc, làm rõ căn nguyên, mới có thể làm cho tín ngưỡng có lý tính, không bị thái quá. Tôi đã vạch ra, tường thuật rõ ràng các pháp sự “thu hồn” “áp sát” của Kê đồng, hy vọng các vị độc giả có ích, thì quốc gia thật là may mắn thay, dân tộc may mắn thay.


  • Chương Thứ nhất: nguồn gốc của phái Lư Sơn“Lư Sơn” phái là một đại biểu cho pháp giáo ngày trước, phụng thờ Hứa Chân quân làm pháp chủ, mà phân làm hai giáo phái “Tam nãi” và “Pháp chủ công”. Ngày trước trong Đạo giáo Đài Loan, phái Tam Nãi cùng với phái Pháp chủ công, phái Linh Bảo đứng như thế kiềng ba chân. Trong ba giáo pháo ấy thì phái Tam Nãi cực kỳ hưng thịnh, phong khí bao trùm toàn Đài Loan.Hứa Chân Quân (Cảm Thiên Đại Đế). Hứa Chân Quân tên là Tốn, tự Kính Chi, tổ tiên là người Nhữ Nam, cuối thời Hán cha của ông lánh nạn sang đất Dự Chương Nam Xương. Bởi vì nhà ông vốn có nguồn gốc đạo gia nên chân quân bác học, uyên thâm các sách về thiên văn, địa lý, âm dương, luật vĩ, vả lại còn học phép thuật thần tiên, tu đan luyện dược. Lúc đầu ông được Tây An Ngô Mãnh (Thần Liệt Chân Quân) truyền thụ, tinh tu chẳng lười, đạo đức ngày càng chuyên. Vào năm thứ nhất niên hiệu Thái Nguyên nhà Tấn ông làm chức huyện lệnh Xuyên Thục, vì dân bỏ hết mọi phiền hà, dạy bảo đạo tốt, làm cho dân chúng vô cùng cảm phục, biến đá thành vàng, thay dân nộp thuế, dùng thuật chữ bệnh, người bệnh nhanh khỏi, từ huệ nhân chính, tiếng thơm ngày càng lan xa, vì cảm mộ ngài nên thời ấy có ca dao truyền tụng. Về sau ông từ quan, đông du Cao Dương, nghe nói Đan Dương có nữ pháp sư nhiều đạo thuật thì bèn đến xin học, được quyển sách quý về bùa cùng với các phép trừ tà, phép phi bộ (đi như bay). Do đó ông trảm ma trừ yêu, vì dân trừ hết thảy tai ương, công đức vô cùng lớn.Phái Tam Nãi: lấy Tam Nãi phu nhân làm chủ thần, tức Lý Nãi phu nhân Lý Sa Nương, miếu chính ở Thiết Khanh (Chính Hòa); Trần Nãi phu nhân Trần Tịnh Cô, miếu chính ở Lâm Thủy (Cổ Miếu); Lâm Nãi phu nhân Lâm Tam Nương, miếu chính ở Chuyển Thủy (Ninh Đức). Chuyên dùng phép thuật để giải việc nguy hiểm khi sinh nở. Khoa nghi có thỉnh thần, an táo, tác pháp, tấu trạng, thoại quân, điểm binh, phiên thổ, uyển hoa khu xà, tế tống, thoái bệnh, đả đào thang, chử du tịnh trạch, tống âm hỏa, thu hồn phản trúc, hợp trúc thu hồn, ngộ hạn, tiến tiền, tạ nhập đàn thần, phân hoa, cầu mưa thỉnh thần…vv Chủ của phái Tam Nãi là Lâm Thủy phu nhân họ Trần, tên Tịnh Cô, người huyện Cổ Điền Phúc Châu, sinh vào năm thứ hai niên hiệu Đại Lịch nhà Đường, tổ là Ngọc, cha là Xương, mẹ họ Cát, phu nhân từ nhỏ đã thần dị linh thông, lớn lên được gả cho Lưu Kỉ,, mang thai vài tháng, lúc đó thời gian dài trời đất khô hanh, phu nhân ở trên đàn cầu mưa, mây đen lập tức kéo đến, thiên hạ được nhờ, thuật ứng như thế mà phu nhân lại bị tổn thất tính mạng, bà để lại lời quyết rằng: sau khi ta chết, không cứu người đời bị tai nạn khi sinh nở thì không làm thần vậy. Lúc đó bà mới 24 tuổi, từ đó về sau hiển tích sáng tỏ. Ở đất Lâm Thủy có một động Bạch xà thường hay nhả khói trắng như sương gây bệnh tật cho dân. Một ngày, có người nông dân họ Chu cầm kiếm tìm trảm yêu xà, người vùng đó nhìn thấy rồi mới biết đó là phu nhân hiển thánh bèn lập trước động một đền thờ thờ bà, cũng xây lầu Sơn Trang. Ở trong các truyền thuyết hư ảo thì Nương Ma (Trần Tịnh Cô) sinh vào giờ dần ngày 15 tháng giêng năm giáp dần, có ngũ long thổ thủy tắm cho thân, sau khi thành thần nắm quản binh mã vạn người, trên nước đưa quân hành chính pháp, bế trừ Nam Nhạc ngũ miếu môn, cưỡi ngựa nhập miếu, cứu ra Tam cung Tam hoàng hậu, Song Thanh thái tử, hoàng đế tuyên phong: Hộ quốc Trần phu nhân.Phái Pháp chủ công: Pháp chủ công khởi nguồn ở châu Vĩnh Xuân tỉnh Phúc Kiến mà truyền đến Tuyền Châu, tuy rõ ràng là lấy Hứa chân quân làm chủ mà ở trong sách Lư Sơn thì lại thờ cúng Trương Thánh Giả. Phái Pháp chủ công trong tín ngưỡng dân gian Đài Loan tuy không được hưng thịnh như phái Tam Nãi, nhưng ở các vùng nông thôn thì lại thành một thế lực không thể coi thường. Căn cứ vào các sách bùa chú truyền lại, Lư Sơn lấy Hứa Chân quân làm pháp chủ, Phổ am Phật làm giáo chủ, lấy Đông doanh của Ngũ doanh thiên binh chủ soái là Trương Thánh Quân (hoặc gọi là Trương Thánh Gỉa) trấn làm thần bảo vệ, đặt làm Lư Sơn pháp chủ, tục gọi là Pháp chủ công. Về bản chất mà nói, đó là tên của Lư Sơn mà thực là sùng bái Trương Pháp chủ công. Nhưng có bộ phận pháp sư, tin tưởng pháp chủ của họ thuộc Chân Quân mà không phải Trương Thánh Quân. Phái Pháp chủ công đa phần là phụng thờ “Cửu long tam công”, chủ trị tà sát, Cửu long là chỉ hồ Cửu Long ở sách Vĩnh Xuân Phúc Kiến, Tam công là chỉ ba đạo nhân Trương, Tiêu, Chương, lại còn chỉ là Trương, Tiêu, Hồng. Tương truyền Pháp chủ công họ Trương, tên là Tự Quán, là người mân thanh, luyện tính ở hang Thạch Cổ núi Tiêu Khê, vào khoảng năm Thiệu Hưng nhà Tống núi Thạch Ngưu nửa đêm hỏa tinh phát sáng, biết rằng có điều lạ, bèn cùng hai thánh Tiêu, Chương đến. Núi Thạch Ngưu có động Thạch Hồ sâu rộng hơn hai trượng, đá có đầu trâu, trong có yêu xà ba đuôi, là tinh vật tu luyện nghìn năm, đắc được linh khí của sông núi, hít được tinh hoa của nhật nguyệt, có thể biến hóa. Ngày nọ có người lấy vợ, tà đồ đi theo rất nhiều, Pháp chủ công xuất chưởng, khiến cho người đi theo hiện nguyên hình, người con gái giả trang ngồi trong xe biến thành rắn, người đi theo hiện nguyên hình là chuột, người vợ rắn liền chạy vào trong động. Tam thánh vào động cùng đánh nhau với lũ yêu ma, cuối cùng chiến thắng trở về, đoạt được thạch động làm nơi tu luyện đạo, anh linh hiển hách một vùng hồ Cửu Long, lâu sau xà tinh lại tác quái, dân chúng nhờ các ngài, các ngài lại xuất kiếm trảm tà. Năm đầu niên hiệu Đại Đức nhà Nguyên, Tiêu Khê có nạn rắn, dân thôn cầu đảo pháp chủ, ngày đó sấm sét đánh xuống giết chết độc xà, nhân dân càng tin Pháp chủ công linh hiển, đấy là ở hương Tiên Uyển, lý Quang Đắc xây miếu phụng thờ, lấy tên là Bích Linh cung, bốn hương 18 lý đều tin tưởng ngưỡng vọng.

  • Chương thứ hai: phép Thu hồn của phái Lư Sơn

    Thu hồn là đối với chiêu hồn của người sống, bởi vì trong phong tục tín ngưỡng dân gian cho rằng người ta bị bệnh đa phần là do hồn phách thất tán mà nên, cho nên ắt phải chiêu thu ba hồn bảy phách về thân, như thế mới không lo bị mất mạng. Bình thường cái gọi là thu hồn, là gần với thu hồn phách, làm phép giản đơn và dễ dàng, cho nên còn gọi là “tiểu thu”. Trong phái Lư Sơn pháp sư làm phép ắt là được mời đến nhà người bệnh, làm phép ở sảnh chính, lấy người cỏ thế thân, ngoài “thu hồn” thì còn thêm nghi thức “Tế tống” tức “Tế sát áp tống” hoặc “Tế tống sát thần”, chỉ việc đuổi hung thần ác sát ra ngoài để tránh hậu họa, cũng tức là một kiểu an toàn được triển khai, hiệu quả hơn các phép trước, dụng cụ do đó cũng nhiều hơn và cũng phức tạp hơn, không dễ và cũng không hay thường làm, cho nên gọi là “đại thu”, dùng cho người bị các loại bệnh hoặc các chứng bệnh nan y. Lại vì phép này thuộc vào hệ đuổi tà tích cực, nhiều động tác, cho nên phép thuật lập tràng ngôn, đấy là thuộc về làm phép của “Võ đàn”.

    Tiết thứ nhất: các dụng cụ pháp sư cần chuẩn bị

    Một: Pháp linh (chuông) một cái, đạo sĩ dùng chuông “Tam thanh”, dân gian gọi là “sư công hình”, khi làm phép cầm ở trong tay, không khi nào không lắc, âm thanh vọng hưởng chẳng dứt.Hai: Cờ ngũ doanh: ở giữa cờ vẽ một khuyên tròn, trong khuyên dùng mực đen viết một chữ lệnh, năm que là năm cờ, căn cứ vào sự biểu thị của màu sắc ngũ phương là cờ lệnh của Ngũ doanh thần binh, dùng để điều binh khiển tướng, trấn giữ đàn giới, khu tà đuổi sát. Cờ xanh là Đông doanh cửu di quân, chủ soái Trương Thánh Gỉa; Cờ hồng là Nam doanh bát man quân, chủ soái là Tiêu Thánh Gỉa; Cờ vàng là Trung doanh tam tần quân, chủ soái là Lý Thánh Gỉa.Ba: một thanh Thất Tinh kiếm: hoặc còn được gọi là bảo kiếm, trên thân kiếm có vẽ thất tinh bắc đẩu, dùng để trảm tà.Bốn: pháp thằng (dây thừng), hoặc là “pháp tố”, một đoạn dài ước chừng 20 cm, một tấm gỗ khắc thành hình đầu rắn, dây thừng kết thành thân rắn và đuôi rắn, dùng làm roi đánh hung thần ác sát, cho nên được gọi là “Tịnh tiên”, giản xưng là “tiên”Năm: một cái “phụng chỉ”, còn được gọi là “Tịnh bản”, một mảnh gỗ nhỏ dài tám phân, rộng ba phân, cao bốn phân, chất gỗ cần dùng gỗ cứng, cho nên đa phần thuộc hệ “cửu tầng mộc” hoặc “cội bản”(gốc cây), dùng để dọa quỷ, tương tự như gỗ cảnh đường của pháp quan. Sáu: một đôi chiếu: trải ở trên đất để bốc quẻ hỏi ý thần, phàm khi tế điển đều dùng.Bảy: vẽ bùa: phù lệnh ứng nghi thức bắt đầu trước khi vẽ bùa.

    Tiết thứ hai: những vật dụng người bệnh cần chuẩn bị

    Một: gạo trắng: chỉ chỗ để cho hồn phách nương vào, cho nên gọi là gạo hồn. Số lượng thì cần lấy ba vò là đủ, lại dùng tay nắm ba lần, biểu thị ý là ba hồn, lại nắm bảy lần biểu thị là thất pháchChú: phong tục dân gian Đài Loan hiện nay ngày thường vật dùng để nấu cơm đa phần là dùng vò nấu cơm, gọi là “Đồng quán tử”.Hai: một chiếc áo sơ mi mà người bệnh thường ngày hay mặc, giặt sạch sẽ phơi khô, cũng là cái vật để mà hồn nương vào vậy.Ba: một người cỏ: là vật thế thân của người bệnh, có thể dùng người giấy để thay. Cách tạo người giấy: dùng 36 cọng cổ khô, ý chỉ ngụ ở trong ấy là 36 đốt xương, cũng là số mục của 36 bùa Thiên cang, dán một tấm giấy vàng ở đỉnh dùng để kính thần, dùng bút, mực đen vẽ mắt, lông mày, mũi, miệng, giống hình mặt. Sau đó nếu như người bệnh là trẻ con thì lấy cái áo đó mặc lên người; nếu như đó là người lớn, không thể mặc vừa thì đem cái áo cũ xé ra, lấy một mảnh buộc lên người cỏ. Lại dùng một tấm tiền giấy vàng, mực đen viết giờ, ngày tháng năm sinh, tên họ của người bệnh lên đó rồi buộc lên bụng người cỏ. Sáu: dây lụa: hai màu hắc (đen), bạch (trắng) đều sáu sợi, tổng cộng là 12 sợi, để ứng với 12 tháng trong năm, nếu như gặp phải năm có tháng nhuận thì thêm một sợi đen hoặc sợi trắng. Năm: Tiền đồng: 12 đồng tiền, ở giữa tiền có một lỗ vuông, cũng tương ứng với 12 tháng trong năm, nếu như phải năm nhuận thì thêm một đồng, giống như dây lụa, sau đó dùng dây lụa xâu các đồng tiền lại với nhau buộc lên bụng người cỏ, dùng ở “hại cưu” để tránh tà nên còn gọi là “tiền Cưu tử”.Sáu: một con gà trống sống: dùng để “gọi hồn”, cho nên còn gọi là “gà gọi hồn”Bảy: vật tránh tà: chủ yếu dùng một cái kéo, một tấm gương nhỏ, một cái thước. cùng với một bát nước sạch, bát nước ấy cũng giống như lá trúc. Muối và gạo trộn lẫn trong một cái bát nhỏ gọi là “bát muối gạo”.Tám: vật cúng: ba con sinh nhỏ dùng để khao quân (tức khao thiên binh thần tướng) cùng với tế sát (tế tống hung thần ác sát), tức tống ngoại phương hoặc tạ ngoại phương, cái này hạ cấp quỷ thần, cho nên dùng hạn chế; bao gồm một miếng thịt lợn nhỏ, lấy trừng gà dùng thay gà, lấy cá khô thay cho cá, gà. Canh rau một bát, ngày thường ăn dùng rau xanh đều có thể được.Chín: các loại tiền giấy: Một: vàng thọ: lấy 48 tờ tính làm một nghìn, lúc đó cần dùng là 2 nghìn, cho nên dùng tổng cộng ước chừng 100 tờ mà thôi. Hai: vàng nhị ngũ, lại còn gọi là “vàng tứ ngũ”, lại bởi vì dùng để tế thần thổ địa, cho nên tục xưng là “vàng thổ địa công”. Lấy mười tấm gấp làm một chiếc, ba chiếc làm một cái, lúc đó cần dùng hai cái, cho nên tổng cộng dùng 60 cái. Ba: vàng tam lục: dùng để bái lễ thần phật, dùng năm tấm gấp làm một chiếc, 5 chiếc làm một cái, lúc đó cần dùng 4 cái nên tổng cộng cần 100 tờ. Bốn: vàng Cửu hại, giản xưng là “vàng lưu”, ngoài ra còn được gọi là “vàng trung”. Đơn vị, phép tính giống như “vàng tam lục”, lúc đó cần dùng 6 cái, cho nên tổngcộng là 150 tấm. Vàng Phúc: dùng 6 đến 7 tấm gấp làm một chiếc, năm chiếc làm 1 cái, lúc đó cần dùng 12 chiếc, cho nên tổng cộng ước chừng là 70 đến 80 tấm. Sáu: tiền kim bạch, dùng để khao quân, thưởng cho thiên binh thần tướng, giống như quân phiếu ở dương gian. Bảy: giấy bạc: có hai kiểu lớn, nhỏ, gọi là “đại ngân” và “tiểu ngân”, thông thường gọi là giấy bạc, người đời sau tương đối hay dùng ở việc tang, tế tổ, bái không thờ cô hồn hoặc địa chủ, hạ cấp quỷ thần. Lấy năm cái làm một đơn vị, ước chừng 50 tấm. Tám: áo kinh, hình dài, cao 6 phân, rộng 22 phân, dùng ấn màu xanh đóng lên quần áo cùng giày mũ ở trên giấy, hóa cho những cô hồn không con nối dõi làm quần áo, đa phần dùng ở phổ độ, tế cô hồn dã quỷ. Dùng ba tấm gấp làm một chiếc, năm chiếc là một cái. Ở trong tế nhỏ, đốt bao nhiêu cũng được. Chín: tiền bản mệnh, hình dài vuông, cao năm phân, rộng bảy phân, kiểu nhỏ, giấy thô, ở giữa dán ngân bạc nhỏ, đó cũng là một loại tiền giấy, dùng khi thu hồn. Lấy một tấm gấp làm một chiếc, năm chiếc làm một cái, hóa bao nhiêu cũng được. Mười: tiền âm dương: hình thức chế tạo và cách dùng đều giống như ở trên, đó là loại phối hợp dùng khi tế, không được dùng đơn lẻ hóa. Mười một: một cái giỏ trúc, đáy nông, đường kính ước chừng 50 phân, nhà dân đa phần dùng để đựng thực vật khô, gọi là “cảm tử”. Mười một: một cái bàn vuông: dùng để bê thức ăn, trước dùng gỗ chế tạo, nay đa phần dùng kim loại. Mười hai: một chiếc chiếu cỏ dùng để trải, không ắt phải dùng chiếu mới, chiếu cũ cũng có thể được.
  • Tiết thứ ba: nghi thức thu hồn 

    Pháp sư thi hành toàn bộ nghi thức thu hồn gọi là “toàn đàn”. Dựa theo thứ tự phân là Đỉnh đàn (một), Hạ đàn (hai), Thu hồn (ba), Tiến phòng hại cưu (bốn), áp tống ngoại (năm). (Một) Đỉnh đàn: đỉnh đàn là nghi thức khai tràng, chỉ chiêu giáng chúng linh, khấp lâm đàn giới, cũng tức là “thỉnh thần”, đây là cơ sở của pháp sự, cho nên rất thường dùng, ví như phép tàng hồn, cũng không phải là ngoại lệ. Pháp sư tất cả làm phép, đều ngồi trên chiếu cỏ mà làm. Đạo tràng là thánh địa của thánh, thảng như có uế khí, sợ thần không giáng, cho nên trước khi làm phép cần niệm khởi các hạng tịnh chú, tịnh hóa bản thân pháp sư, tế tràng cho đến hương. Thanh tịnh chú: thái cực phân cao hậu, kinh thỉnh thượng lệ thiên, nhân long thu chí đạo, thân nãi tác chân tiên; hành mãn tam thiên tuế, thời đăng tứ vạn niên, đan đài khai bảo nhận, kim cổ ứng lưu truyền. Tịnh thân chú: thái thượng đài than vĩnh biến vô đình, khu tà phộc mị, bảo mệnh hộ thân; trí tuệ minh tịnh, tâm thần tâm ninh, tam hồn vĩnh cửu, phách vô tang khuynh. Tịnh khẩu chú: đan chu khẩu thần, thổ uế trừ phân, thiệt thần chính luân, thông mệnh dưỡng thần; la ngọ sỉ thần, khước tà về chân, hầu thần hổ phấn, khí thần dẫn tân; tâm thần đan nguyên, lệnh ngã thông chân, tư thần luyện dịch, đạo khí trường tồn; mệnh ma nhiếp uế thiên tôn Sơ đồ bố trí đạo tràng tế điển kiến trai [hình trang 33] Biểu đồ Trung Quốc dân gian la chế linh hồn [hình trang 34] Tịnh tâm chú: linh bảo thiên tôn, an uất thần hình, đệ tử hồn phách, ngũ tạng huyền minh; thanh long bạch hổ, trụy phục phân vân, Chu Tước, Huyền Vũ, thị vệ ngũ thân; đạo khí trường tồn, mệnh ma nhiếp uế thiên tôn. Tịnh thiên chú: thiên địa tự nhiên, uế khí phân tán, đỗng trung huyền hư, tức diệu thái nguyên; nhập phương uy thần, sử ngô tự nhiên, linh bảo phù lệnh, phổ cáo cửu thiên; Càn la hằng na, đỗng trung thái hư, trảm yêu phọc tà, sát quỷ vạn can; Trung sơn thần chú, nguyên thủy ngọc văn, trì tụng nhất thiên, khích quỷ diên niên; án hành ngũ nhạc, nhập hải tri văn, ma vương thúc thủ, thị vệ ngô hiên; hung uế tiêu tán, đạo khí trường tồn, mệnh ma nhiếp uế thiên tôn. Tịnh hương chú: tam thiên chi thượng, dĩ đạo vi tôn, vạn pháp chi trung, phần hương vi thủ; kim dĩ đạo hương, đức hương, vô vi hương, vô vi thanh tịnh tự nhiên hương; linh bảo huệ hương, siêu tam giới, tam cảnh, dao chiêm bách bái chân hương. Sau khi niệm chú này xong thì cầm que hương bái tạ, thành kính thỉnh thần giáng lâm, niệm “Thỉnh thiên thần chú”, “thỉnh Địa kỳ chú” Thỉnh Thiên thần chú: phần hương thượng thỉnh kim quyết đế quân, nam đẩu tinh quânTừ tế chân nhân, Hộ úy chân nhân, Cửu thiên huyền nữ, Trương tiên thiên quân, Phục ma đại đế quan thánh đế quân, Vương linh quan, Linh bảo thiên tôn, Đại bi đại nguyện, Đại thánh đại từ, Cửu thiên phổ huyền khai hóa năng ứng Trương tiên đại đế, Thất khúc lưu thánh thiên tôn, Bắc cực đại đế, Bảo sinh đại đế, Linh quan vương thiên tôn, Tiên thiên chủ tướng, Nhất khí thần quân, Đô thiên đẩu sát tam giới vô tư mãnh liệt tướng, Thuần hà Lý Kỉ tứ tiên cô, Lã Dự nhị tiên, Thanh thủy tổ sư, Tróc phọc già tỏa tứ đại tướng, Mã Ôn nhị soái, Giang Hoàng nhị tiên quan, Khang Triệu nhị nguyên soái, Trương Tiêu Lưu Liên tứ đại thánh giả, Tứ trực công tào sứ giả, Trực phù sứ giả, tốc giáng lai lâm. Thỉnh Địa kỳ chú: phần hương thượng thỉnh bản gia khâm phụng hữu triển thần minh, Quán âm phật tổ, Thiện tài nương nữ, Oanh ca độc bình, tỉnh táo tinh quân, Phúc đức chính thần,Thiên thượng thánh mẫu, Thiên lý nhãn, Thuận phong nhĩ, Cung nga nữ tì, tốc giáng lai lâm.
  • Thỉnh thần thổ địa xong rồi, tiếp đó thỉnh ngoại cảnh, tức người nhà bệnh nhân thỉnh thần thủ hộ nơi phủ huyện hương trấn hoặc đặc khu hành chính nơi người bệnh ở. Thần chú rằng: phần hương thượng thỉnh mỗ phủ mỗ thần, phi vân tẩu mã, tốc giáng lai lâm.
    Tiếp đó thỉnh “bản cảnh” tức thần trấn giữ cai thôn đó, cùng với các thần khác mà có quan hệ thân thiện với các thần miếu, chú rằng:phần hương thượng thỉnh bản cảnh mỗ mỗ tôn thần, thượng hạ quá vãng nhất thiết thần thần kỳ, phi vân tẩu mã, tốc giáng lai lâm. Lại thỉnh thần ngũ phương cho đến ngũ phương thổ sát thần, chú rằng: khải hương thượng thỉnh, đông phương mộc đức tinh quân, nam phương hỏa đức tinh quân, tây phương kim đức tinh quân, bắc phương thủy đức tinh quân, trung ương thổ đức tinh quân, ngũ phương ngũ thổ thần sát tướng quân, phi vân tẩu mã, tốc giáng lai lâm. Sau cùng lại thành khẩn chiêu thỉnh Lư Sơn Hứa pháp chủ, Phổ am giáo chủ cùng các vị tổ sư cho đến các vị Hắc hổ tướng quân, Na tra, Ngũ doanh binh mã, tránh tà bảo cảnh. Chú rằng: thiêu kim lý đáp doanh, phần hương chiếu la y, tam hoa xả giới, tra tại kim bình trung, hảo trà tiến lai đàn trung hiến. Dĩ kim phụng thỉnh Lư Sơn, Phổ am đại giáo chủ, bái thỉnh bản đàn liệt vị ân chủ đô phụng thỉnh, tái thỉnh hạ đàn hắc hổ đại tướng quân, tam thỉnh Na Tra tam thái tử, Ngũ doanh binh mã đô phụng thỉnh. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Do đó, chúng thần đã đền tề tựu đông đủ, đốt hướng khấu thành “chúc cáo”, bày tỏ nguyên do sự việc: kim cứ đại thiên thế giới nam chiêm bộ châu đại trung hoa dân quốc Đài Loan tỉnh mỗ huyện mỗ hương trấn cát hướng cư trú trực phúc tín sĩ (tính danh) đệ tử chi tử (tính danh) phạm sự, thỉnh y điều trị, thực dược vô hiệu, hợp gia vô nại, đáo đàn kì cầu ân chủ mỗ thần đáo gia, phụng thử, tức nhật kim thời, kiền bị tam sinh tửu lễ, kim ngân tài bảo, sắc tứ tiểu pháp thu hồn, cát cưu, khởi thổ, trước sát thoát bệnh, áp tống hung thần ác sát xuất ngoại phương khứ, tốc tứ đệ tử (tính danh) thân thể kiện khang, nguyên thần quang thái, tứ thời vô tai, bát tiết hữu khánh, hợp gia bình an, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Sắc đạo cụ cùng phù lệnh: Sắc phù chú: (ai) bản sư vi ngã sắc phù lệnh, tổ sư vi ngã sắc phù lệnh, tiên nhân vĩ ngã sắc phù lệnh, ngọc nữ vi ngã sắc phù lệnh, phổ am giáo chủ vi ngã sắc phù lệnh, Lư Sơn pháp chủ vi ngã sắc phù lệnh, bản đàn ân chủ vi ngã sắc phù lệnh. Sắc phù lệnh tam sư tam đồng tử, sắc phù tam sư tam đồng lang. (ai) phù lệnh phù lệnh, đầu đái tam thanh, trấn thiên thiên thanh, trấn địa địa linh, trấn nhân nhân trường sinh, trấn quỷ quỷ diệt vong, trấn khử hung thần, ác sát tẩu bất đình, ngô phụng Thái thượng lão quân sắc, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Sắc diêm mễ chú: (ai) bản sư vi ngã sắc diêm mễ, tổ sư vi ngã sắc diêm mễ, tiên nhân vi ngã sắc diêm mễ, ngọc nữ vi ngã sắc diêm mễ. Thử mễ phi phàm mễ, chính thị Côn Luân sơn thanh mễ, bạch mễ biến tố Bạch diện tướng quân, hồng mễ biến tố Hồng diện tướng quân, toái mễ mãn sơn biến tố Đại tướng quân, diêm biến thành thiết trùy, mễ biến thành thiết tử, tán thiên thiên thanh, tán địa địa linh, tán nhân nhân trường sinh, tán quỷ quỷ diệt vong, ngô phụng Thái thượng lão quân sắc, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Chú: trước tiên lấy một đạo bùa Hóa diêm mễ đã sắc xong hóa vào trong bát muối gạo, hóa xong thì niệm sắc “Diêm mễ chú”Sắc Thanh thủy chú: (ai) bản sư vị ngã sắc thanh thủy, tổ sư vị ngã sắc thanh thủy, tiên nhân vị ngã sắc thanh thủy, ngọc nữ vị ngã sắc thanh thủy, Lư Sơn, Phổ Am vị ngã sắc thanh thủy, môn thần, hộ úy vị ngã sắc thanh thủy, thử thủy phi thàm thủy, chính thị Côn Luân sơn thanh thủy, tán thất thiên thiên thanh, tán thất địa địa linh, tán nhân nhân trường sinh, tán quỷ quỷ diệt vong, tán khử hung thần ác sát tận diệt vong, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Chú: sắc thanh thủy cùng với sắc diêm mễ cách dùng giống nhau, trước tiên lấy một đạo bùa hóa thanh thủy hóa vào trong một bát nước sạch, hóa xong thì niệm sắc thanh thủy chú .

  • 1. Thỉnh Ngũ doanh chú:

    a. Thỉnh Đông doanh Trương Thánh giả chú: cẩn thỉnh pháp thiên Trương Thánh giả, thế cư phúc phận giáng lâm lai. Xích cước tu lai hành chính pháp, phổ đà diệu thượng triển uy linh, kim sa kiều đầu truyền văn pháp, thanh long đàm lý tảo tu hành. Cước đạp hỏa luân khu tà uế, thủ tiếp bảo kiếm trảm yêu tinh, đằng vân đảo vũ cam lộ, họa phù xuất tổ đáo phàm gian, hộ quốc cứu dân hưng diệu thượng, đại thiên hành hóa hiển chân thân, tứ thập ngũ tuế nham phù thủy, lưu hành quốc thổ niên quang huy, tân niên tân nguyệt phi hóa thân, hóa thân hiển hiện tại đàn tiền, tả hữu già la ngũ quan tướng, công tào mã hổ nhị uy linh, tam đàn tổ sư ngô thái nam, tam giới tổ sư ngô chân nhân, trương tiêu lưu liên tứ thánh giả, hiệp lực phù thủy cứu vạn dân. Đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, trương công thánh giả giáng lâm lai. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh.b. Thỉnh Nam doanh Tiêu thánh giả chú: cẩn thỉnh phúc thiên Tiêu thánh giả, thiếu niên kim thân nhập Phật gia, toàn vô sư phụ truyền văn pháp, tiếp dẫn Tiêu công nhập du nha, hốt nhiên Đặng công tương hội nghị, tu điệp phúc họa vĩnh vô sai, mậu tí cửu nguyệt thập tam dạ, hợi tí phụ thời thập nguyệt sơ, nhị thập bát tuế công thành mãn, hội khê kiều đầu tọa liên đài, thiên lý vạn mã lai nghênh tiếp, tiếp thu Tiêu công nhập du vệ, đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, Tiêu công thánh giả giang lâm lai. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. c. Thỉnh Tây doanh Lưu thánh giả chú: cẩn thỉnh thất đài Lưu thánh giả, giáng long phục hổ đại từ bi, sư tử nham tiền phục mãnh hổ, kim thương thụ hạ giáng thanh long, nham trung tu hành hành chính pháp, Lưu công thánh giả hiển chân thân, hiển hiện linh quan mãn thiên hạ, long thời chiếu phụng nhập ngưu vệ. Đệ tử nhất tâm bái thỉnh, Lưu công thánh giả giáng lai lâm, thần binh hỏa cấp như luật lệnh.d. Thỉnh Bắc doanh Liên thánh giả chú: cẩn thỉnh lĩnh thượng Liên thánh giả, lâm đại ngọc lang triển thần thông, thiếu niên xả thân ngập tham đàn, tiễn phát quang đầu vi bản nguyên, vi kiến phàm nhân nhược bệnh đa, chủng chủng lâm đồng tại đàn tiền, bất phạ thành hoàng tịnh xã tắc, bất phạ vi phi bất chính thần, dĩ ngã thanh tịnh hành chính pháp, hành đạp cang bộ đẩu thân giáng lâm. Đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, Liên công thánh giả giáng lâm lai. Thần binh hỏa cấp như luật lệnhe. Thỉnh Trung doanh Lý thánh giả chú: cẩn thỉnh Lý công trung thánh giả, thủ tiếp kim thương đống càn khôn, tuần du thiên hạ bình thế giới, chân pháp cảm ứng cứu vạn dân. Khôn sơn mãnh hổ vi thần tiên, tam tử đồng bản thập bát niên, kim mộc thủy hỏa vi đầu thiện, lão quân tứ đại độ chúng sinh, Đường triều sắc phong Đại nguyên soái, khu tà sát quỷ Đại tướng quân, ngã tại ngọc hoàng thân sắc lệnh, phần hương bái thỉnh đáo đàn tiền, đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, Trung đàn nguyên soái giáng lâm lai, thần binh hỏa cấp như luật lệnh.2. Thỉnh Trung cung nguyên soái chú:cẩn thỉnh Trung ương Thái ất quân, liên đài hiếu tinh bố hắc vân, thủ tiếp hồng mao thất tinh kiếm, trảm đoạn yêu tinh bất chính thần, vĩnh thế thiên dao kính bích quân, vấn ngô phù thủy bất lưu đình. Nhất điểm đông phương giáp ất mộc, thanh phù thanh thủy thanh nhãn tịnh; Nhị điểm nam phương bính đinh hỏa, thập điện tướng quân khiên kim tỏa; Tam điểm tây phương canh tân kim, nhật nhật thời thời thân giáng lâm; Tứ điểm bắc phương nhâm quý thủy, bài binh liệt trận trảm yêu tinh; Ngũ điểm trung ương mậu kỉ thổ, khai khai thiên môn bế địa hộ. Đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, Trung cung nguyên soái giáng lâm lai.3. Thỉnh Bắc phương hắc sát thần chú: ngưỡng khải bắc phương hắc sát tướng, hóa thân chân vũ đại tướng quân, xích bao độc lập hắc vân trung, uy vũ thần thông vi đệ nhất, thủ tiếp thất tinh giáng ma kiếm, cước đạp đằng xà bát quái quy, vĩnh trấn bắc phương vi thượng đế, họa hạo vô cương thần thông lực. Ngưỡng khải thiên binh bát sát tướng, xuất nhập nham hồ cứu chúng sinh, tả hựu thanh long, hãu bạch hổ, tiền hữu chu tước, hậu huyền vũ, tùy ngô hạ giáng thân tuần hàm, tảo thanh điện tiền bất pháp nhân. Ngô phụng thượng đế thân chúc phó, bắc đế môn hạ chỉ huy binh, tiên trảm hạ phương vô đạo quỷ, hậu trảm nhập ly bất chính thần, thiên cang thái ất tùy ngô chuyển, đinh giáp nhị tướng trợ ngô hành, ngô kim chấn động thiên môn khẩu, đại khai thiên môn bế địa hộ. Đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, bắc phương sát tướng giáng lâm lai. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh.4. Thỉnh Vương tôn nguyên soái chú: cẩn thỉnh Vương tôn tam tướng công, kị long tẩu mã biến thần thông, thân thụ ngọc hoàng thượng đế sắc, giáng tại phàm gian cứu chúng sinh, hạ âm thu hồn lai tố chủ, lập đắc tác pháp quỷ thần kinh, ngỗ hữu mãnh tướng chư quan tướng, khu tà sát quỷ trảm yêu tinh. Đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, Vương tôn nguyên soái giáng lâm lai. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh.5. Thỉnh bản đàn Thập đại tướng chú: cẩn thỉnh bản thập đại tướng, ngô phương tróc phọc hổ gia la, đông phương mộc đức hổ la uy, nam phương Xích đế hổ uy la, tây phương kim đức vi sắc lệnh, bắc phương Hắc đế mã gia la, Trung ương thánh giả quân gia chú, uy phong lẫm lẫm bất tu ngại. Tróc phọc già tỏa tứ đại tướng, trảm áp binh tiêu đại thần vương, y vương trình tróc bất khả vấn, chính đạo y vương nan khả đắc. Hoặc tại thiên trung thân quy y, hoặc tại ba lãng trảm giao long, hoặc tại nhân gian cứu chư khổ, hoặc tại kim luân dưỡng tôn thần, bất vấn môn thần tịnh hộ úy, bất vấn tuyên vương thụ sắc thần, bất vấn tà thần vô đạo quỷ, bất vấn thập ác hồ ly tinh, nhược hữu nhất chính ô uế quỷ, áp khứ đàn trung hóa vi trần. Đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, hợp đàn quan tướng giáng lâm lai, thần binh hỏa cấp như luật lệnh.Thỉnh Lư Sơn pháp chủ chú: cẩn thỉnh Lư Sơn linh thông sứ, chân thân hiển hiện thỉnh chuyên cung. Nguyên tại giang châu truyền văn pháp, đồng tùy thánh tổ đáo phàm gian, thân thụ ngọc hoàng thân sắc lệnh, xuất tại chú phù độ chúng sinh. Tả hữu bài binh kim ngã sứ, nguyên soái ca ca tiến tiền lai, du sơn công tào dụng minh pháp, du hải công tào hàn pháp thông. Thân kị bảo mã du thiên hạ, thủ tiếp kim tiên quải tử vân, hữu nhân thường niệm tùy cảm ứng, phù đổng hạ giáng cứu sinh dân. Lục đinh lục giáp tùy ngã hành, công tào quan phong tả hữu binh. Tử sơn hàn mai càn khôn định, chuẩn sơn hàn hải du thiên đình, xuyên sơn nhập thạch trảm yêu tinh. Sắc phong truyền lai thị lão quân, hương hỏa lưu truyền biến thiên hạ, hộ quốc tí dân độc vi tôn. Đệ tử nhất tâm chuyên bái thỉnh, Lư Sơn pháp chủ giáng lâm lai, thần binh hỏa cấp như luật lệnh.Phương thức chiêu hồn. Thu hồn chỉ việc thu hồi tam hồn thất phách bị phiêu tán, đó là phần trung tâm của một pháp sự. Cách làm phép đó, dùng cờ ngũ phương, bắt đầu dựa vào pháp lực của Ngũ doanh thần binh thiên tướng tìm hồn về. Có lẽ ở hai đàn đỉnh, hạ, các thần hiển ứng nhận lời mời đều đến, tụ tập ở sảnh đường. Do đó điều phái các thần, đi ngũ phương truy hồi hồn mất, cho nên cũng gọi là ngũ phương thu. Các trình tự đó, cùng với tư thế của pháp sư, vẫn như cũ, ngồi trên chiếu mà làm, trước tiên niệm Tịnh thiên địa chú, sau khi tịnh hóa pháp đạo tràng, lần thứ nhất từ phương đông thu khởi, pháp sư tay phải không ngừng lắc chuông, tay trái cầm ba que hương, cờ xanh cùng thước, miệng niệm chú Thu hồn đối với phương đông hoặc chú thỉnh Ngũ phương.




  • Sắc pháp thằng chú: (ai) thần tiêu ngọc thanh, kim nhật sắc nhĩ hạ giáng, tự hữu phàm tiêu đệ tử, công tào ngọc văn, thiên phùng ngũ hành, chân phù tùy ngã tam điếu, thần binh hỏa cấp như luật lệnh.
    Sắc bảo kiếm chú: (ai) ân chủ tứ ngã thất tinh kiếm, cửu luyện thành thiết, thập thành đao, số trận bạch mã đại tướng quân, nhất thời tề hạ trảm yêu tà, giám tế nhân gian tịnh địa ngục, thành hoàng, xã tắc trình sơn hà. Ngã kim trảm đoạn quỷ thần diệt vong, áp khứ phong đô nhập cấm la, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Sắc thế thân chú: (ai) bản sư vị ngã sắc thế thân, tổ sư vị ngã sắc thế thân, tiên nhân vị ngã sắc thế thân, ngọc nữ vị ngã sắc thế thân, quán âm thủy hỏa vị ngã sắc thế thân, môn thần, hộ úy vị ngã sắc thế thân. (ai) thế thân thế thân, vị sắc bản thị thảo, sắc liễu tiện thị nhân, hoa chỉ tố nhĩ thế thân, bạch chỉ tố nhĩ diện, trúc tử chi tố nhĩ hậu cước cân. Vĩnh chưởng …(ghi tính danh đệ tử) dữ nhĩ đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thời thụ sinh, ..(các đệ tử) hữu sự nhĩ đảm đương, hữu sự nhĩ thế thân khử tiêu tai giải ách, thế khứ tha hương ngoại tinh khứ, bất đắc cửu đình, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Chú: phép sức cho người cỏ và phép sắc cho các dụng cụ ở trên có chỗ không giống nhau. Cho nên phép sắc khác một cách. Lúc đó người cỏ đặt ở trong giỏ, chưa có dời động; Đầu tiên, pháp sư đốt ba que hương, đi đến gần người cỏ, tay phải cầm hương, giống như cầm bút, lấy hương thay bút, đi đến người cỏ vẽ lên thân một tấm bùa “áp sát” nhìn không rõ. Mọi vật sắc xong, sau cùng đốt bao nhiêu tiền vàng giấy cầm ở tay phải chạy đi, đối với pháp tràng cho đến các vật dụng đều rung lắc, một mặt thì niệm chú: (ai) Tống triều sắc phong Tống Nhân Tông, Ngọc đế hữu chỉ thị Ngọc hoàng, chuẩn ngã phát phù phóng hỏa thiêu hồn động, âm quỷ kiến tẩu xuất tây phương, tứ ngã chu bút hựu nhất chi, âm quỷ khan kiến sổ vạn tự, tự tự phộc quỷ lai đáo chỉ, hung thần ác sát bài lưỡng biên, tứ ngã thanh hương hựu tam chi, hạ bốc hảo huynh dữ hảo đệ, hạ bốc mỗ mỗ (tính danh) đệ tử thân thể khẩn khẩn thuyên dũ, tam sinh tửu lễ đáp tạ y, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. (Hai) Hạ đàn: pháp sự đỉnh đàn đã xong, tiếp đó là pháp sự hạ đàn, chiêu thỉnh Ngũ doanh binh tướng, Trung cung nguyên soái, Bắc phương hắc sát thần, Vương Tôn nguyên soái, Thập đại tướng, Lư Sơn pháp chủ, những vị này đều là những vị thần có năng lực tránh tà, dựa vào các vị đó mà sát quỷ trảm yêu hoặc bắt hồn quay trở về. Tư thế thi triển của pháp sư, từ đầu đến cuối ngồi ở trên chiếu mà làm phép. Lại dựa vào việc thỉnh thần, thân phận và công năng có sự khác nhau, cho nên cần niệm chú chiêu thỉnh, quan trọng nhất là Ngũ doanh nguyên soái cho đến Bắc phương hắc sát thần, Vương tôn nguyên soái, đồng thời cần làm động tác chỉ hình (chỉ pháp), thêm chú ngữ để thêm linh lực.


  • Chú rằng: đông phương thu hồn nhất thiết xích, tín nam mỗ mỗ (tính danh), tam hồn lộ đỉnh diệc hữu tán, diệc hữu ngọc xích lượng hồn quy. Bản sư vi ngô thu hồn hồi, tổ sư vi ngô thu hồn quy, tiên nhân vi ngô thu hồn hồi, ngọc nữ vi ngô phục hồn quy. Thu hồn tam sư tam đồng tử, thu hồn tam sư tam đồng lang, cấp cấp thu hồn cấp cấp đáo, cấp cấp thu hồn cấp cấp hồi. Thu bốc đầu hồn quy, cước hồn hồi, thu bốc tam hồn thất phách quy bản thân, thu bốc thập nhị điều thần hồn quy bản thân, thu bốc mỗ mỗ (tính danh) tam hồn thất phách quy bản thân. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Niệm xong ném cáo lấy quẻ ly tán ở phương đông của hồn phách, tùy theo việc thuận lợi truy hồi về, để hồn nương vào người cỏ. Qủa nhiên ném cốc thánh ra một ngửa, một úp tức thì biểu thị hồn phách đã quay về; Còn nếu như hai cốc đều ngửa hoặc đều úp thì biểu thị gặp phải trở ngại, hồn phách chưa từng chạy qua phương đó, cho nên cần lại niệm chú Thôi tróc, tăng cường tìm kiếm, gọi là “Tái thôi”, Tái thôi chú như sau: bản sư vi ngô thu hồn hồi, tổ sư vi ngô thu hồn quy, ngọc nữ vi ngô thu hồn quy, táo quân, thổ địa vi ngô thu hồn hồi, hợp đàn quan tướng vi ngô thu hồn quy. Thu hồn tam quy tam đồng tử, thu hồn tam sư tam đồng lang, cấp cấp thu hồn cấp cấp hồi, cấp cấp thu hồn cấp cấp quy, cấp cấp thu bốc mỗ mỗ (tính danh) tam hồn thất phách quy bản thân, mỗ mỗ (tính danh)tam hồn thất phách phản lai. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Sau khi niệm xong “Tái thôi chú” lại ném cáo như chưa thu được “thánh bôi” (cốc thánh), tức ta “tái thôi”, cho đến khi thu được “thánh bôi”, tức hồn phách yên ổn quay trở về thì dừng. Đông phương hồn phách đã thu về rồi, bèn tiếp tục thi hành bước thứ hai tụ hướng phương nam thu về, bước thứ ba tụ hướng phương tây thu về, bước thứ tư tụ hướng phương bắc thu về, bước thứ năm tụ hướng phương giữa thu về. Nguyên tắc động tác năm bước ở trên giống nhau, không cần miêu tả lại. Hướng nam thu khởi. Tay trái cầm ba que hương, cờ hồng cùng gàChú thu hồn, bốn câu đầu cải là “nam phương thu hồn nhất linh kê, hóa tác biến phượng chi thượng đề, tín nam tam hồn lộ đầu tán, diệc hữu kim kê khiếu hồn quy”. Ngoài cái đó ra, chú thu hồn đều giống như trình bày ở trên. Hướng tây thu khởi. Tay trái cầm ba que hương, cờ trắng cùng kéo. Chú thu hồn, bốn câu đầu cải là:“tây phương thu hồn nhất tiễn đao, vương mẫu tứ ngã tiễn tà ma, tín nam tam phách lộ đầu tán, diệc hữu kim đao tiễn hồn quy”. Ngoài cái đó ra, chú thu hồn đều giống như trình bày ở trên. Hướng bắc thu khởi. Tay trái cầm ba que hương, cờ đen cùng gạo trắng. Chú thu hồn, bốn câu đầu cải là: “bắc phương thu hồn sửu tâm lôi, ngũ sắc bạch mễ tứ biên vi, tín nam tam hồn lộ đầu tán, diệc hữu bạch mễ tán hồn quy”. Ngoài cái đó ra, chú thu hồn đều giống như trình bày ở trên. Hướng giữa thu khởi. Tay nắm ba que hương, cờ vàng cùng kính. Chú thu hồn, bốn câu đầu cải là: “trung phương thu hồn minh kính đài, ngũ doanh quân binh thu hồn lai, tín nam tam hồn lộ đầu tán, diệc hữu bảo kính chiếu hồn quy“. Ngoài cái đó ra, chú thu hồn đều giống như trình bày ở trên. Như thế ba hồn bay phách bị thất tán ở ngũ phương toàn bộ được thu về, sau đó lại niệm chú “Tổng thu” kêu gọi hồn du chơi hãy mau chóng quay về thân, không được du chơi tứ xứ mà quên quay về, đặc biệt cẩn thận rơi xuống hoàng tuyền, chú Tổng thu như sau:mạc thực hoàng tuyền nhất khẩu thủy, thập nhị điều thần hồn diệc trước quy, bả sơn quá lĩnh thu hồn hồi, tam hựu lộ đầu thu hồn quy, tứ hựu lộ khẩu thu hồn hồi, điền đầu điền vĩ thu hồn quy, giang đầu khê vĩ thu hồn hồi, loan giai khống hạng thu hồn quy, lộ đầu lộ vĩ thu hồn hồi, thố tiền thố hậu thu hồn quy, cấp cấp thu hồn cấp cấp tống, cấp cấp thu hồn cấp cấp quy. Đỉnh cung bất thu tha nhân phách, hạ cung bất thu tha nhân hồn, thu bốc mỗ mỗ (tính danh) tam hồn thất phách quy bản thân, thu bốc thập nhị điều thần hồn mỗ mỗ (tính danh) bản thân. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Do đó, tiết mục thu hồn xong, pháp sư khép tay bái nhất bái, khấu đầu, đứng dạy rời khỏi chiếu. Trước tiên cầm áo của bệnh nhân che trên mâm bỏ ra, lộ xuất gạo trắng, trước pháp sự rõ ràng làm bằng mặt gạo, nếu như nay định tất làm linh lực của thần minh mà khởi biến hóa mà hiện rõ những lang tích không bình thường, biểu rõ là ý thần minh. Pháp sư bèn tụ tinh hội thần, tỉ mỉ quan sát, dự đoán nguyên nhân cùng phương hướng xung phạm bảo cho người bệnh biết. Phán đoán phương hướng: lấy một cái mâm tượng trưng cho vị trí nhà của người bệnh cùng với các nhà hàng xóm xung quanh. Nếu như phát hiện sự biến hóa của gạo ở góc đông của mâm thì biểu thị người bệnh bị ở phương đông (bao gồm kinh sợ, phạm hoặc sát) . Phán đoán nguyên nhân: Một: nếu như hạt gạo đứng thẳng, thì biểu thị bởi vì hàng rào vây xung quanh hoặc trụ đứng mà bị. Hai: nếu như hạt gạo bị vỡ làm đôi thì biểu thị bởi vì chặt cây hoặc chặt tre mà phạm phải “thổ mộc sát”. Ba: nếu như gạo trên mặt mâm đột ngột xuất hiện nhưng điều bất thường ẩn ước như dấu chân tay người hoặc dấu chân gia súc thì có ba tình huống sau: một: dấu chân người thì biểu thị người vì trượt ngã mà kinh sợ, thất phách dẫn đến sinh bệnh; hai: dấu tay người thì biểu thị khi người ngã xuống tay trước tiên chạm đất, cũng do đó mà kinh sợ, thất hồn dẫn đến sinh bệnh; ba: dấu chân gia súc có ba loại gà, chó, mèo biểu thị bị gia cầm gia súc dọa sợ, thất hồn dẫn đến sinh bệnh; bốn: nếu như gạo trên mâm nguyên như cũ chẳng thay đổi, lông không biến hóa hình tượng, thì biểu thị không có xung phạm gì, bệnh nhân bị bên ngoài, cho nên cần theo đường khác tìm đường chữa trị. Tiến phòng cát cưu: Tiến phòng cát cưu còn được gọi là Nhập phòng cát cưu, tức pháp sư vào trong phòng của người bệnh, đem người bệnh cùng hung thần ác sát cắt đứt, đoạn tuyệt quan hệ. Pháp sư trước tiên ở ngoài phòng, tay phải cầm thất tinh kiếm, tay trái cầm bát nước sạch, một mặt niệm “Tiến phòng chú”, một mặt tiến phòng. Nhưng khi dẫm qua bậc cửa thì cần lưu ý điều cấm kị, nếu như gặp phải ngày đôi, thì nên trước tiên cần giẫm từ chân trái bước, ngày đơn thì dùng chân phải bước trước. Vả lại khoảnh khắc bước lên nên đem thân thể tránh né chút. Thảng như dùng sai chân trái chân phải hoặc chưa từng tránh né, vạn nhất gặp mặt, pháp sư có thể xung phạm mã ngã xuống đất không thể dậy được. Nghiêm giữ một động tác này, thì khiến cho hung thần ác sát xung xuất hiện, đương lúc ấy có thể bay nhanh qua.

    Tiến phòng chú: (ai) thanh thanh linh linh, thống lĩnh doanh binh, công hoàn thái tử, tống quá phân minh; kim thương cử khởi, tú cầu phao hành, đả khai doanh môn, bách vạn hung binh.(ai) nhất tả thiên thanh, nhị tả địa linh, tam tả phòng môn lưỡng biên khai, bản đàn ân chủ, ngũ đàn quan tướng, ngũ doanh binh mã, tùy ngã tiểu pháp nhập phòng nội. thần binh hỏa cấp như luật lệnh.Pháp sư tiến vào trong phòng người bệnh, lập tức đặt kiếm bên tay phải xuống, thay cầm lá trúc, vẩy nước sạch (nước ở trong bát), khắp các nơi trong phòng, vầy nước rượu, lập tức đem bát nước sạch đặt trong giỏ trúc. Sau đó lại cầm kiếm, đối diện với giường nằm của người bệnh cầm trong tay người cỏ niệm khởi Cát cưu chú. Cát cưu vốn ý là chỉ Cát cưu ti tuyền, cái ấy là chỉ động tác cắt đứt dây trắng đen buộc ở eo của người cỏ. Có lẽ lúc đó hồn phách đã thu về nương ở người cỏ, khiến cho nó quay trở về an ở trong thân người bệnh, ắt là sẽ có thể khiến bao nhiêu ác sát nương ở người cỏ bị cắt đứt, phân ly. Cát cưu chú: (ai) bàn sư vi ngã lai cát cưu, tổ sư vi ngã lai cát cưu, kim đồng, ngọc nữ vi ngã lai cát cưu, Lữ Sơn pháp chủ vi ngã lai cát cưu, Phổ am giáo chủ vi ngã lai cát cưu; Quán âm thủy hỏa vi ngã lai cát cữu, môn thần, hộ úy vi ngã lai cứt cữu, táo quân, thổ địa vi ngã lai cát cữu, cát cưu tam sư tam đồng tử, cát cưu tam sư tam đồng lang. (ai) cát khứ thiên cữu, địa cữu, niên cữu, nguyệt cữu, thời cữu, âm cữu, dương cữu. (ai) nhất đao lưỡng đoạn, cát đắc đoạn, hung thần ác sát tẩu viễn viễn. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh.Niệm xong, lấy thất tinh kiếm của tay trái một phát chém đứt dây hắc bạch, dùng dây xuyên 12 đồng tiền chế thành một xâu, thì lần lượt đặt xuống, pháp sư lập tức dùng kĩ xảo tay trái tiếp lấy. Tay phải buông Thất tinh kiếm, cầm người cỏ của bệnh nhân lặng lẽ đặt lên ngực người bệnh, từ trên xuống dưới xoa nhẹ ba lần, lại ở sau lưng, từ trên xuống dưới xoa nhẹ bảy lần, động tác giống như gạo và áo sơ mi ở trước, chỉ việc đem ba hồn bảy vía từ từ tiến vào trong người bệnh. Sau cùng lại đem người cỏ đặt vào vị trí cũ. Lại lấy phủi những đồng tiền ở bên tay trái, một mặt niệm “Cát cưu tạo quái tiền chú”, chú như sau:(ai) hại khứ nhất thái tuế, nhị thái dương, tam tang môn, tứ thái bảo, ngũ quan quỷ, lục tử phù, thất tuế phá, bát lương đức, cửu bạch hổ, thập phúc đức, thập nhất thiên cẩu, thập nhị bệnh phù. Niệm xong bèn đem đồng tiền bên tay trái ném xuống mặt đất, khiến cho nó vang vọng thành tiếng, một mặt tiếp tục niệm: (ai) đồng tiền lạc địa đinh đang thanh, hung thần ác sát kiến ngã tận giai kinh. Đỉnh điều thị hà, hạ điều thị giang; thoái quá giang, đệ tử thân thể khoái khing tông; cát cưu cát đắc ly, hung thần ác sát giai hồi quy. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Do đó tay phải lại cầm thất tinh kiếm, lấy kiếm vạch đất, đem đồng tiền rải ra bày trên đất, vẽ một vòng tròn vây xung quanh với cái ý ngụ rằng đào một cái giếng sâu, rồi niệm “Khai kim tỉnh thu sát chú”, đem ác sát bỏ xuống đáy giếng, chú rằng: (ai) bản sư vị ngã lai thu sát, tổ sư vị ngã lai thu sát, tiên nhân vị ngã lai thu sát, ngọc nữ vị ngã lai thu sát, quán âm thủy hỏa vị ngã lai thu sát, Lư Sơn, Phổ am vị ngã lai thu sát, Táo quân, thổ địa vị ngã lai thu sát, môn thần, hộ úy vị ngã lai thu sát, thu sát tam sư tam đồng tử, thu sát tam sư tam đồng lang, thu bốc kim thần thất sát phó hạ kim tỉnh, bất đắc tẩu động. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Thông thường mà nói pháp sự Tiến phòng Cát cữu làm đến bước “Khai kim tỉnh thu sát” thì dừng, đã cáo tất hoàn thành. Nếu như người bệnh sát khí cực nặng, hung thần ác sát vẫn bám quanh, không thể ly rời, tức không được không cầm vương bài sau cùng ra ngoài, thi triển phép thuật “Cách thất sát”. Bèn niệm Cách thất sát chú: súc sinh, nhĩ đương sơ tại dương châu bộ thị đầu, lý viên ngoại gia vi nô, tùy nhĩ chủ xuất ngoại trang thu trướng, hồi đáo nhất động môn, cập đáo nhất động môn, nhĩ thân bị mã thi tử, đáo thử âm hồn bất tán, mãn địa mang mang, biến tác kim thần thất sát, đầu vi ngũ quỷ, mục vi điếu khắc, nhĩ vi bệnh phù, khẩu vi tang môn, thân vi bạch hổ, thủ vi ngã toái, cước vi phi sát. Ngô kim phụng ân chủ, ná nhĩ phó hạ kim tỉnh, bất đắc động tác. Nhĩ hữu thiên trượng kim thân, ngô hữu vạn trượng kim tỉnh; nhĩ hữu vạn trượng kim thân, ngô hữu thiên thiên vạn vạn trượng kim tỉnh, tốc tốc phó hạ kim tỉnh, nhược thị bất hạ kim tỉnh, ngô phụng ân chủ, thủ tiếp thất tinh bảo kiếm, trảm nhĩ vô đầu dụng mã diện. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh.Hiện tại hung thần ác sát đã bị thu phục rồi, tiếp đó nên dán phù lệnh lên trên xà cửa, để tránh lại bị xâm phạm, để an toàn. Tấm lệnh bùa đó còn gọi là “an phù lệnh”, ấy là dùng tay kết chỉ pháp “sắc phù chỉ”, đồng thời cũng niệm chú “an phù lệnh”: (ai) phù lệnh phù lệnh, đầu đái tam thanh, trấn thiên thiên thanh, trấn địa địa linh, trấn nhân nhân trường sinh, trấn quỷ quỷ diệt vong. Ngô phụng Thái thượng lão quân sắc. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh.Sau đó, từ trong ra ngoài, lần lượt theo thứ tự đem các loại phù lệnh dán ở giường nằm, trên đầu trướng, xà ngang cửa, xà ngang cửa sảnh chính cùng với xà ngang các cửa để trừ hậu họa(năm) Áp tống ra bên ngoài: do diêm và gạo đều có tác dụng trấn tà, được sử dụng ở các phương diện để tránh tà, đuổi quỷ, tịnh hóa cùng giáng thần. Pháp sự của tiến phòng cát cưu hoàn tất xong, tiếp đó là pháp sự áp tống ra ngoài, cầm diêm gạo tung ra ngũ phương, dùng áp tống hung thần ác sát của ngũ phương ra ngoài, đồng thời niệm chú “Tán diêm mễ”:(ai) nhất tống đông phương giáp ất mộc, mộc thần mộc sát quy đông phương khứ; Nhị tống nam phương bính đinh hỏa, hỏa thần hỏa sát quy nam phương khứ; Tam tống tây phương canh tân kim, kim thần thất sát quy tây phương khứ. Tứ tống bắc phương nhâm quý thủy, thủy thần thủy sát quy bắc phương khứ. (ai) ngũ tống trung ương tuất tị thổ, thổ thần thổ sát xuất ngoại phương khứ. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh。Sau đó, gọi người nhà đem giỏ trúc (ở bên trong có người cỏ, tam sinh, thức ăn, cơm), bát diêm gạo, bát nước sạch cùng với minh tệ (tiền minh), trước tiên nhấc ra bên ngoài thôn, đến địa điểm được chỉ định là ngã tư đường. Áp tống ra ngoài cần phải chọn địa điểm, nên nhìn “phương sát” ở chỗ nào thì chọn lấy. “phương sát” ấy là phương hướng bàn cứ của hung thần ác sát, do ngày mày khác, như ngày thân, tí thần, các ngày đó sát ở phương nam; ngày kỉ, dậu, sửu, ngày đó sát ở phương đông; ngày hợi, mão, mùi sát ở phương tây; ngày dần, ngọ, tuất, sát ở phương bắc. Cho nên cần phải xem xét một cách cẩn thận ngày đó theo thập nhị chi thuộc ngày nào để tránh phương sát, ngoài ba phương đó thì đều không có chướng ngại.Do đó pháp sư đứng ở trong phòng, tay phải cầm Pháp thằng tức Tịnh tiên khua như roi ngựa, quất quất tạo âm hưởng, miệng niệm: khai tiên trước tống chú. Trước tiên từ trong phòng chạy ra, miệng niệm: nhất tống hung thần ác sát xuất đại sảnh, tẩu. Hô tiên rồi chạy ra ngoài phòng người bệnh, đến chính sảnh lại niệm: nhị tống hung thần ác sát lộ thượng hành, tẩu. Hô tiên chạy ra khỏi sảnh chính; đến sân, lại niệm: tam tống hung thần ác sát tha hương ngoại lý khứ, nhật hậu bất chuẩn thử gia hành, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Sau đó một mạch chạy hô tiên; chạy đến chỗ ngã tư ngoài thôn đã được chỉ định. Lúc đó các vật trong giỏ trúc được bỏ ở trên mặt đất bên cạnh đường, cùng liền hóa vàng nhị ngũ, vàng tam lục, vàng cửu hại, tiền kim bạch, giấy bạc, áo kinh, tiền bản mệnh, tiền âm dương, đồng thời niệm chú hóa giấy:kim ngân nhất phân hóa thập phân, thập phân hóa bách phân, bách phân hóa thiên phân, thiên phân hóa vạn phân, vạn phân hóa sổ thiên sổ vạn vạn phân. Phụng thỉnh thổ thần thổ sát, nhất bách nhị thập tứ hung thần ác sát, liệt vị đẳng sát, lai đắc kim, lai đắc tiền. Thử tiền bất thị tha nhân tiền, giá tiền nãi thị Đài Loan tỉnh mỗ mỗ huyện (thị) mỗ mỗ hương trấn mỗ mỗ (tính danh) đệ tử, thu hồn, cát cưu, khởi thổ, trước sát, thoái bệnh, áp tống đích bình an tiền. Thử tiền lĩnh đắc khứ, tốc tốc tí hựu mỗ mỗ (tính danh) đệ tử thân thể khang kiện, nguyên thần quang thái, tứ thời vô tai, bát tiết hữu khánh, hợp gia bình an, thần binh thính lệnh. Thủ tục ở ngoài đường ấy là cung cấp cho hung thần ác sát, tống tặng lệ phí, do đó lập tức xuất cảnh ra ngoài, không có thể lưu lại làm phiền. Sau đó thì hóa người cỏ, đem tam sinh, thức ăc, cơm, muối gạo vứt bỏ ở ven đường, nước sạch cũng đổ xuống, đem giỏ trúc, đĩa, bát và các vật khí có dùng mang về, duy chỉ sợ rằng có thấm uế khí, cho nên tạm thời đặt ở mái hiên nhà, đợi nó tự nhiên tịnh hóa, ngày tiếp theo thì có thể thu lại, sử dụng bình thường. Do đó, pháp sự “áp tống ngoại phương” xong xuôi, thì quay trở lại sảnh chính, đốt hóa vàng thọ (có thể dùng vàng nhị ngũ để thay thế), miệng niệm chú “từ thần tạ đàn” : thiên linh địa linh, nguyên bảo đồng trinh, liệt vị chư thần, các bảo an ninh, ngũ tạng thần cư, cửu công thần đạo, các quy bản điện, các quy bảo tọa; cẩn cẩn phụng tống, thiên binh quy thiên tào, địa binh quy địa phủ, hữu am quy am, hữu miếu quy miếu, hữu cung quy cung, vô cung vô miếu, tiểu pháp phụng tống, phi vân tẩu mã thượng thiên đình. Thần binh thính hội.
  • Chương ba: tế thất tinh đăng thu đẩu hồn pháp
    “Tế thất tinh đăng thu đấu hồn pháp”, pháp sự đó cùng với phép thu hồn mà trước đó đã trình bày ở trên hoàn toàn giống nhau, chỉ là các thủ tục có phần phức tạp hơn, quy mô cũng lớn hơn chút, các thiết bị phức tạp hơn. Cho nên cái gọi là “Tế bắc đẩu thất tinh” là chỉ khấn cầu cho người bệnh “nguyên thần quang thái” tức tinh thần khỏe mạnh, cũng tức là không có gì khác ngoài việc đề cao sinh mệnh của mình, giống như “bái đẩu” của lễ đấu pháp hội. Cái gọi là “thu đẩu hồn” tức ý dùng đấu gạo thu hồn, đem hồn phách đã thất tán thu hồi về, bởi vì lúc đó hồn phách có thể đã từng suy nhược không chịu được, cho nên tạm thời đem cái trạng đó nhập vào trong đấu, lợi dụng tác dụng tránh tà của đấu, với ngụ ý là bảo hộ thân thể của ta. “Tế thất tinh đăng thu đẩu hồn pháp” cùng với phép thu hồn trước đó có điểm chủ yếu nhất không giống nhau đó là cách bố trí đạo đàn, phải thêm Thất tinh đăng, đẩu đăng, uyển quái cùng đoạn kiều; ở nghi thức trên thì thêm “uyển quái” “đoạn kiều” cùng “cách ngũ phương” là đặc sắc; đặc biệt “cách ngũ phương” là quan trọng nhất, không có thể thiếu. 1. Bố trí đạo tràng Bố trí cơ bản của pháp tràng, cùng với phép thu hồn ở trước, tất cả đều giống nhau, chỉ có thêm bộ phận đạo cụ, thuật tự như sau: a. Một đạo bùa thu hồn, đặt ở trên mặt mâm vuông (tức trên mặt vàng nhị ngũ) b. Chiếu cỏ, tuy nhiên ở pháp sự thu hồn trước cũng có lấy chiếu trải nhưng dùng và không dùng vốn không có quan hệ lớn lắm. Do đó các pháp khí cũng không bao hàm ý nghĩa đặc thù, cho nên chiếu cũ cũng có thể dùng, không ắt phải dùng hàng mới. Nhưng mà pháp sự này, bởi vì sau cùng cần dùng chiếu mà làm nghi thức “cách ngũ phương” để tránh tà, cho nên lúc bắt đầu ắt cần phải dùng hoàn toàn đồ mới c. Thất tinh đăng (đèn thất tinh), bảy chén đèn dầu nhỏ đặt ở trên chiếu, dựa gần sảnh chính, bày thành hai hàng ngang, trước bốn chén sau ba chén, đó là tượng trưng cho thất tinh bắc đẩu, cũng tức là chủ thể của phép thu hồn. d. Đẩu đăng. Bởi vì cần dùng một đẩu (cái đấu), một đăng (đèn), cho nên tuy cũng gọi là “đẩu đăng” nhưng hình thế và cách sắp xếp có sự khác biệt so với Kiến tiếu tế điển và Lễ đẩu pháp hội, nó phức tạp hơn nhiều, cho nên thường gọi là “Đẩu” để biểu thị sự khác biệt. Pháp sư ngồi trước, đặt một chén dầu nhỏ, trên úp một cái đấu. Cái đấu đó ngày thường dùng để đong gạo, hình tròn, đáy đấu hướng lên trên, miệng đấu úp xuống dưới, chùm lên đèn, cũng dùng một đạo bùa “Thu đẩu hồn” đặt ở dưới đấu hướng lên trên. Bùa đó hoặc xưng là An Đẩu phù, hoặc Đẩu phù. e. Quái uyển (xếp bát theo quẻ). Đặt ở trước đầu chiếu, pháp sư nghiêng sang góc bên trái đối diện với đoạn kiều. Dùng 10 cái bát nhỏ xếp chồng làm một đống, đống đó dùng phép nghiêng là đặc thù, phân làm hai tầng trên và dưới, mỗi tầng năm bát, hình thế như nhau. Tầng dưới, trước tiên đặt một cái bát ngửa lên trên, trên mặt xếp ba cái bát thành hàng ngang, các bát miệng đều hướng ra ngoài, đáy bát úp vào trong, chân bát gác xuống bát dưới. Mặt trên lại đặt một cái bát hướng úp hướng xuống dưới, tức thì xong tầng dưới. Mặt trên cũng làm như vậy, toàn bộ cả hai xếp thành một đống, cao ước chừng 30 phân. Duy cái đống bát này tuy là đồ thường sử dụng hàng ngày ăn, nhưng ngày nay ở các thành phố đều dùng chất đất, men tốt nên bóng loáng, dễ trơn trượt, hơn nữa lại còn hay đặt trong lò vi sóng, cho nên rất khó để gác lên. Vì vậy cần phải chọn những vật ở thôn xóm, chất men và đất còn thô, như thế dùng mới hợp.
    f. Đoạn kiều: giản xưng là “Kiều”, đặt ở trước đầu chiếu, pháp sư nghiêng sang bên góc phải. Dùng hai cái bát lớn, bên trong đựng nước sạch ước chừng 8 phân, hai bát cách nhau ước chừng 20 phân, ở giữa hai bát đặt một cái đũa gác lên hai bát tựa như cầu, ấy là tượng trưng cho thể của hai giới u minh.
  •  Nghi thức
    Nghi thức của pháp sự này bao gồm xếp bát thành quẻ, đoạn kiều, cách ngũ phương. Trước tiên xếp bát theo quẻ, dùng bát để thay cho cáo (một vật thời cổ dùng để bói), đem bát xếp úp ngược lại, xem xét tình hình phối hợp, để mà đoán tình hình của bệnh nhân, các nguyên nhân như phương quý nhân, nhà cửa hoặc mộ phần (địa lý) bảo người nhà bệnh nhân, ngoài ra thi hành các đối sách. Căn cứ vào thủ pháp, sự biến hóa của cáo bốc, gọi “bạt uyển quái”. Luận về tác dụng của nó, ở trong một pháp sự thu hồn, không những là gián tiếp, cũng là phép hệ thuộc thứ yếu, thí như xếp gạo theo quẻ vậy. Phép úp bát rất là đơn giản, tay cầm pháp thằng, từ tầng sau cùng của chồng bát xếp, quấn quanh hai vòng mà buộc chặt lại, dùng lực kéo một cái, bởi vì đống bát đó vốn đã rất dễ bị đổ, cho nên một cái kéo thì các bát đều rơi xuống đất, sau đó dựa vào các trạng thái tĩnh của vật mà qua đó để phán đoán. Thảng như trong 10 cái bát, chỉ có 1 cái rời ra, lăn ra xa thì biểu thị quý nhân (tức cứu chủ) ở phương hướng đó, gọi là “quý nhân phương”, ứng với bác sĩ đi ở phương hướng nào thì là y. Lại như bát ngưỡng thiên (chổng lên trời) thì biểu thị “quý nhân hiển” tức là y sư có thể, lập tức tìm kiếm; nếu như bát úp xuống đất thì biểu thị “quý nhân ám” thì nên kiểm tra tỉ mỉ mới có thể tìm thấy. Thảng như có hai cát bát trong 10 cái, không úp không ngửa mà nghiêng, vả lại lưng dựa lưng, thì biểu thị nguyên nhân phong thủy không đúng hoặc mộ phần tổ tiên bị hủy hoại .Thảng như có ba cái bát trong 10 cái, cũng không úp không ngửa mà đứng nghiêng, vả lại còn xếp hàng ngang, thì biểu thị nguyên nhân địa lý nhà cửa không đúng hoặc chịu tổn thấtĐộng tác tiếp theo là đoạn kiều, pháp sư cầm kiếm, tập trung tinh thần, mắt chăm chú nhìn vào đôi đũa, trong khoảnh khắc có một lực mạnh nhanh như chớp đánh xuống, tức thì một tiếc “tách” kêu lên, chiếc đũa bị gãy làm đôi, mà tư thế của chiếc bát vẫn nguyên như cũ, nước cũng không bắn ra ngoài. Có lẽ đó là do lực quá nhanh mạnh giống như một loại đao pháp, cho nên không phải bậc lão luyện thì khó mà làm được như vậy. Do đó cầu đã đứt, ác linh không có thể quay trở lại làm phiền. Việc đó cùng với “Cát cưu” ở trước cũng không có khác biệt lắm.Do đó các vật khí trong đạo tràng tất cả đều đem thu lại, bùa thu hồn và bùa thu đẩu hồn cũng thu lại đem hóa, sau cùng trải chiếu thi hành pháp sự “cách ngũ phương”. Duy phép thuật này chỉ việc cách ly hung thần ác sát của ngũ phương, cách tức là “cách giới vậy” với ý nghĩa là cách ly, mà hoạch định khu vực địa giới của pháp tràng thì kết giới vậy. Lại bởi vì dùng chiếu cỏ làm pháp khí chủ yếu, cho nên tục còn gọi là “Cách tịch”. Làm phép thứ tự như sau: đem chiếu trải ở trên đất, từ một đầu quấn buộc chặt lại thành tự như cái côn, lại sợ rằng khi sử dụng bị tở ra, cho nên cần dùng dây hồng buộc chặt ở hai đầu. Bởi vì chiếu này đã dùng trải ở trên đất, đặt lên các vật, pháp sư lại ngồi ở trên, tất nhiên là tiếp xúc với đất, chịu bẩn, do đó dùng tay trái nhấc lên, tay phải cầm vài tấm giấy vàng hóa, đến gần chiếu đưa qua đưa lại vài cái để tịnh hóa, lại làm cho các khí vật phổ thông nhất biến làm cho có năng lực trở thành pháp khí tránh tà. Tay trái vẫn cầm chiếu, tay phải lại cầm bao nhiêu giấy vàng hóa chạy vào trong pháp tràng, tay đưa qua đưa lại để tẩy uế. Thay đổi dùng hai tay cầm chiếu mà múa. Sau đó, niệm khởi “Cách ngũ phương sát chú” (giản xưng là Ngũ phương chú) mà giáng thần, sai giữ đàn giới. Duy cái lúc chiêu thỉnh thần, đương nhiên cái này phép chủ công giáo quan trọng nhất là Ngũ doanh tướng lĩnh. Trước tiên cần giấy vàng một đống nhỏ ở trên đất góc phía đông, một mặt quay múa chiếu, một mặt âm thanh cao thấp có tiết tấu niệm chú, để thỉnh Trương Thánh Gỉa thống lĩnh Đông doanh binh tính giáng lâm: phụng thỉnh, phụng thỉnh, cách giới, cách đông phương, điều thỉnh thiên vương vô giới chủ, vô giới thiên vương chủ nguyên quân. Điều thỉnh Trương công đại thánh giả, lĩnh binh hạ lai bả đàn giới, bất hứa ngoại tà xâm ngô giới, nhược hữu tà ma xâm ngô giới, luân đao thủ trảm bất lưu đình. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Niệm xong, tức thì dùng lực cầm chiếu khua xuống đống giấy vàng làm cho lửa tắt, tùy theo đem chiếu dời sang bên tay trái cầm, tay phải cầm kiếm, hướng đến tàn dư đống lửa thổi bay hết, tiếp đó dùng động tác này chiếu theo thi hành ở các hướng đông tây nam bắc trung, lại làm như vậy. Duy câu “cách đông phương” trong ngữ chú nên đổi làm cách cai phương; câu điều thỉnh Trương công đại thánh giả cũng nên đổi là các họ “Tiêu, Lưu, Liên, Lý”. Do đó, Ngũ doanh binh mã đều tề tựu đến đầy đủ, phàm trong khoảng hạ lệnh giới nghiêm, đàn giới có thần tướng trấn giữ sẽ không lo bị xâm nhiễu. Lại niệm chú cung thỉnh “Trung cung nguyên soái” tức “Thái Ất tinh quân” giáng lâm: cẩn thỉnh Trung cung Thái Ất quân, liên đài hảo tinh quân bố hắc vân, thủ tiếp hồng mao thất tinh kiếm, trảm đoạn yêu tinh bất chính thần, vĩnh thế thiên dao kính bích quân, vấn ngã phù thủy bất lưu. (ai) Nhất điểm đông phương giáp ất mộc, mộc thần mộc sát quy đông phương; nhị điểm nam phương bính đinh hỏa, hỏa thần hỏa sát quy nam phương; tam điểm tây phương canh tân kim, kim thần thất sát quy nam phương; tứ điểm bắc phương nhâm quý thủy, thủy thần thủy sát quy bắc phương; (ai) ngũ điểm trung ương mậu kỉ thổ, thổ thần thổ sát quy trung ương. Thần binh hỏa cấp như luật lệnh. Do đó phép chiếu “Cách ngũ phương”, kết quả là tịnh đàn cáo tất. Nhưng nếu như người đó bị bệnh nguy hoặc thần chọn Kê đồng có chỉ bảo, trường hợp đặc thù thì sau “tiến phòng”, lại hành một lần, đem phòng bệnh cùng kết quả là thánh vực. Duy vu thuật dân gian Đài Loan thì thủ pháp “Cách ngũ phương” cũng bao hàm trong ấy, ngoài ra khi xây miếu mới, sẽ thi hành nghi thức nhập tượng thần vào trong miếu, ắt là cũng triệt để dùng cách này để tránh tà.
  • Share:

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét

    Lưu trữ Blog

    Translate