Quyển sách nhỏ nầy để cắt nghĩa một cách tổng quát những sự bí mật trong đời sống của con người.
Những lời giải thích tuy vắn tắt song vẫn đầy đủ cho những người mới học Đạo.
Đọc kỹ lưỡng quyển nầy,quí bạn thấy rằng cái chi xảy đến cho con người hay là cho cõi Trần đều có căn nguyên, hoặc ở kiếp nầy hay ở kiếp trước.
Trời đất không bao giờ bất công, chỉ tại con người phải gặt lấy những quả của hột giống mình đã gieo. Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu. Chẳng hề có việc gieo lúa, bắp mà gặt tiêu, ớt, cũng như không ai thấy khi nào ương xoài mà mận lại mọc lên. . .
Cho hay, Nhân nào Quả nấy.
Nếu người làm lành mà chưa được hưởng phước là vì còn phải trả quả ác đã gây ra và quả tốt của những việc lành vẫn chưa muồi, nên chưa đến.
Còn kẻ ác mà chưa mắc họa là vì còn hưởng phước của những việc phải đã làm và hơn nữa quả ác cũng chưa chín.
CHƯƠNG THỨ NHỨT
Minh Triết thiêng liêng là gì ?
CHƯƠNG THỨ NHÌ
Thái dương hệ
CHƯƠNG THỨ BA
Con người và những thế giới của nó
CHƯƠNG THỨ TƯ
Con người và những thể hư hoại
CHƯƠNG THỨ NĂM
Những thể bất diệt hay là trường sanh bất tử của con người
CHƯƠNG THỨ SÁU
Luân hồi
CHƯƠNG THỨ BẢY
Sự bí mật của lòng thương và ghét
CHƯƠNG THỨ TÁM
Nhơn Quả - Luật Hành Động và Phản Ứng (Luật Cảm Ứng)
CHƯƠNG THỨ CHÍN
Ba tao của sợi dây định mạng
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
Quyền lợi tư tưởng và công dụng của nó
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
Các giai đoạn trên đường Đạo
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI
Những Huynh trưởng của chúng ta.
Minh Triết thiêng liêng LÀ GÌ ?
Minh Triết thiêng liêng là Ánh sáng soi tỏ mỗi người khi họ sanh ra ở cõi Trần. Nó không phải là của riêng của một người nào, nó là của chung của tất cả mọi người, không phân biệt ai cả và quyền thâu nhận bao hàm quyền sở hữu. Quyền sở hữu lại bắt buộc có bổn phận phải chia sớt. Cái gì là chơn lý, cái gì là đẹp đẽ ở trong mỗi tôn giáo, mỗi môn triết học, mỗi khoa học, mỗi ngành hoạt động đều lấy ở trong Minh Triết thiêng liêng ra, nhưng không môn phái nào được quyền yêu sách rằng Minh Triết thiêng liêng vốn là của riêng của mình và chống lại với môn phái khác.
Tinh hoa Minh Triết thiêng liêng là gì ? Ấy là việc con người vốn bản tánh thiêng liêng cho nên hiểu được Đức Thượng Đế và nó đương chia sớt sự sống của Ngài. Do theo Chơn lý tối cao nầy người ta kết luận là tất cả nhơn loại đều là anh em. Sự sống thiêng liêng là Chơn linh ở trong mọi vật hiện hữu từ nguyên tử cho đến vị Đại Thiên thần; hột bụi kia, cũng chẳng hiện ra được nếu không có Đức Thượng Đế trong đó. Vị Thiên Sứ tối cao cũng là một Điểm Linh Quang Bất diệt của Đức Thượng Đế. Tất cả nhơn vật cùng nhau chia sớt sự sống duy nhứt nầy cố nhiên tạo thành một khối Huynh đệ. Đức Thượng Đế vẫn nội tại [1]. Con người vẫn liên kết với nhau, đó là những Chơn lý căn bản của Minh Triết thiêng liêng.
Những giáo lý phụ thuộc của nó là những giáo lý chung của các tôn giáo xưa và nay tỷ như:
1) Đức Thượng Đế là Đấng Độc nhứt.
2) Ba Ngôi của Ngài.
3) Chơn linh nhập vào vật chất.
4) Các Đẳng cấp Thiên Sứ mà nhơn loại là một ở trong đó.
5) Sự tiến triển nhơn loại nhờ sự mở mang ý thức (tâm thức) và sự tấn hóa các thể (sự Luân hồi).
6) Sự tấn bộ nầy tuân theo một luật bất khả vi phạm: ấy là luật Nhân Quả hay là Cạt ma (Karma).
7) Hoàn cảnh để giúp cho con người tấn triển tức là ba cõi: cõi Hạ giới, cõi Trung giới, cõi Thượng giới hay là: quả Địa cầu, cõi Dục giới và Thiên Đường.
8) Sự hiện hữu của các vị Thánh sư và các vị siêu nhân.
Tất cả các tôn giáo đều dạy kỹ hay đã có dạy những điều nầy; mặc dầu thỉnh thoảng một vài giáo lý nầy bị che lấp, nhưng luôn luôn nó cũng hiện ra lại. Bởi vậy cho nên học thuyết Luân hồi mà Cơ Đốc Giáo đã bỏ mất, nay lại xuất hiện.
Những giáo lý căn bản của các tôn giáo trên hoàn cầu vẫn nhứt trí là bởi các tôn giáo đều do những vị giáo chủ Nhân viên của Quần Tiên Hội lập ra, các Ngài có phận sự bảo tồn Minh Triết thiêng liêng. Thỉnh thoảng có những vị trong Quần Tiên Hội xuất hiện và lập những tôn giáo mới, các Ngài đem theo cũng mấy Chơn lý đó, nhưng trình bày chúng nó dưới một hình thức hạp với tình thế của thời đại, cân xứng với trình độ trí thức và đặc tánh của dân chúng đúng theo những nhu cầu và những phương châm của họ. Những điều cốt yếu vẫn y nguyên, chỉ có những cái chi không quan trọng mới thay đổi. Nói về đại cương, người ta thấy những dấu tượng trưng trong tất cả các tín ngưỡng đều giống in nhau, bởi vì những dấu tượng trưng nầy làm ra lời nói chung của các tôn giáo. Những dấu đó là: vòng tròn, hình tam giác, thập tự giá, con mắt, mặt trời, ngôi sao và nhiều cái khác nữa. Hiểu được như thế thì thấy Minh Triết thiêng liêng phụng sự mỗi tôn giáo trong địa hạt riêng biệt của nó và qui tụ tất cả vào nhóm Huynh Đệ. Về phương diện luân lý, giáo lý Minh Triết thiêng liêng căn cứ trên sự “Đồng Nhứt”, vì thấy trong mỗi hình thể sự biểu lộ của một sự sống chung, thế nên chung qui là khi có một sự sai lầm làm hại một phần tử nào thì nó cũng làm hại cho tất cả toàn thể.
Làm quấy tức là đầu độc nhơn loại, ấy là phạm tội trọng với “Đồng Nhứt”. Minh Triết thiêng liêng không có luật lệ về luân lý bởi chưng chính nó tiêu biểu cho nền luân lý cao quí nhứt, nó hiến cho học giả những bài học luân lý cao hơn hết trong các tôn giáo. Nó thâu nhặt những hoa thơm ngào ngạt nhứt trong vườn tín ngưỡng phàm gian. Đem đạo lý thiên nhiên kết hợp vào một cơ quan thì lập ra một trung tâm do đó sinh lực của cơ quan nầy có thể phóng ra, như thế, một sợi dây mới mẻ và chắc chắn đã tạo thành giữa hai cõi: cõi tinh thần và cõi vật chất. Sự thật, ấy là một “Thánh lễ”, một dấu chứng hữu hình của một sự ban ân huệ tinh thần bên trong, một bằng chứng về sự sống của Đức Thượng Đế ở trong con người.
THÁI DƯƠNG HỆ
Thái dương hệ là một chòm hành tinh xây chung quanh một mặt trời, lấy mặt trời đó làm trung tâm và thâu hút ánh sáng, sự sống và khí lực của mặt trời đó, một trường tấn hóa bao la, bát ngát do một vị Chúa tể điều khiển. Ngài sanh ra chất dĩ thái của vũ trụ hay là chất Nguơn khí, Ngài đem sự sống của Ngài thấm nhuần nó và Ngài lấy nó làm ra thể xác của Ngài. Rồi từ tâm của Ngài là ngôi mặt trời, Ngài cho tuôn ra một nguồn khí lực lưu thông khắp cả hệ thống cũng như máu huyết của Ngài. Máu huyết nầy sẽ trở về trái tim sau khi các chất bổ dưỡng đã cạn, để thâu nạp các chất bổ dưỡng mới khác rồi khởi sự lưu thông như trước, đặng làm công việc bảo tồn sanh mạng của muôn loài vạn vật. Thái dương hệ không phải chỉ là một guồng máy tinh xảo làm bằng vật chất mà nó còn là một biểu hiện của một nguồn sống nuôi dưỡng không biết bao nhiêu sanh mạng do nó tạo ra. Nó thấm nhập vào tất cả những phần tử của nó (tức là các loài vật) đường hoạt động, ham muốn, thông minh hay ngu muội.
Thái dương hệ nầy sanh ra đây đặng cho những Điểm Linh Quang của Thượng Đế mới phô thai và chia sớt bản tánh thiêng liêng của Ngài mới có thể phát triển theo kiểu mẫu của Đấng Cha lành đã định sẵn cho họ. Những bầu hành tinh chứa đựng chẳng những loài người mà lại còn những loài thấp hơn con người nữa.
Trên những cõi tinh vi hơn cõi trần, có những nhân vật tấn hóa hơn con người rất xa mà cũng có những hạng còn thấp kém hơn con người; những nhân vật mà thân hình làm bằng một chất tinh tế hơn chất hồng trần, bởi vậy con mắt phàm không thấy được, nhưng mà họ cũng hoạt động, cũng khôn ngoan; sau rốt là những người đã cổi bỏ xác phàm, họ cũng tư tưởng, họ cũng dễ thương, họ cũng làm việc vậy. Trong lúc còn sống ở cõi trần nầy, người ta có thể tiếp xúc với mấy cõi đó. Sự giao thiệp có thể đầy đủ ý thức như các vị Giáo chủ, các nhà Tiên tri, các nhà Thần bí học và các nhà có Huệ nhãn của tất cả các tôn giáo đã chứng minh điều ấy. Đấng Chí Tôn hiện ra trong hệ thống của Ngài dưới ba trạng thái hay là ba Ngôi: Đấng Sanh hóa, Đấng Bảo tồn và Đấng Phục hưng;
Cơ Đốc Giáo gọi là: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Ấn Độ Giáo gọi là: Brahman, Vishnou và Shiva;
Nhà Thần bí học Hê brơ (Hébreux) Hy bà lai gọi là: Soc ma (Chochmah), Bina (Binah) và Cơ te (Kether);
Người Thông Thiên Học gọi là: Ngôi thứ Nhứt (Premier Logos), Ngôi thứ Nhì (Deuxième Logos) và Ngôi thứ Ba (Troisième Logos), vì dùng theo danh từ xưa của người Hy lạp là “Le Verbe” (Ngôi Lời) để ám chỉ Đức Thượng Đế đã hiện ra.
Ngôi thứ Ba biến đổi Hổn Nguơn nhứt khí ra 7 thứ Nguyên tử rồi phối hợp 7 thứ nầy lại đặng làm ra 7 chất khí căn bản ở khắp Thái dương hệ. Mỗi chất đều luôn luôn nặng hơn chất ở trên kế đó, và tương xứng với một trình độ ý thức (Tâm thức) khác biệt. Mỗi thứ khí căn bản làm ra một cõi hay là một thế giới và trong Thái dương hệ có 7 cõi. Cõi thứ Nhứt và cõi thứ Nhì gọi là cõi Tối Đại Niết Bàn và Đại Niết Bàn, hay là cõi A Di và cõi Anupadaka, tức là hai cõi: Tối Đại Thiêng Liêng và Đại Thiêng Liêng, chỗ Đức Thượng Đế ngự. Cõi thứ Nhì, cõi Đại Niết Bàn là chỗ sanh ra Chơn thần, cũng gọi là Quê hương con người; cõi thứ Ba là cõi Niết Bàn cũng gọi là cõi của Atma (Plan Atmique) và cõi thứ Tư là cõi Bồ Đề cũng gọi là cõi Thiêng Liêng. Lên tới đây người phàm tự biết mình vốn là Thiêng Liêng. Cõi thứ Năm là cõi Trí Tuệ (cõi Thượng giới). Cõi thứ Sáu là cõi Tình cảm (cõi Dục giới hay là cõi Trung giới). Cõi thứ Bảy là cõi Hạ giới hay Phàm trần. Chất khí ở mấy cõi Thiêng Liêng tương xứng với trình độ Thiêng Liêng của ý thức (Tâm thức). Nó tinh vi và dễ uốn nắn ra hình dạng cho đến đỗi một chút kích thích của tinh thần cũng đủ thay đổi hình dạng nó và có ý nghĩa sự chia rẽ đã tiêu mất trong sự hiệp nhứt. Chất khí của cõi Trí Tuệ tương xứng với trình độ trí thức, gồm có tư tưởng và sự hiểu biết, và mỗi sự biến đổi trong tư tưởng đều kèm theo sự rung động trong chất đó [2].
Chất khí làm ra cõi Dục giới hay Trung giới tương xứng với trình độ ham muốn của ý thức. Mỗi sự thay đổi trong sự cảm động, tình dục, sự ham muốn và cảm giác đều kèm theo sự rung động trong chất đó.
Chất khí làm cõi Hồng trần thô kịch hơn và đặc hơn, ấy là chất thứ nhứt cấu tạo để cho ý thức con người hoạt động.
Bảy chất nầy lẫn lộn với nhau cũng như chất đặc, chất lỏng, chất hơi và tinh khí hay dĩ thái hồng trần lẫn lộn với nhau trong những vật bao bọc chung quanh ta. Chúng nó phân phát không đồng đều trong khắp cả không gian của một Thái dương hệ, mà tích tụ từng phần, làm ra những hành tinh, những thế giới hay tinh cầu.
Ba chất khí tinh tế hơn hết (chất khí làm cõi Tối Đại Niết Bàn, Đại Niết Bàn và Niết Bàn) lan tràn khắp nơi trong Thái dương hệ, tức là chỗ nào cũng có chúng nó. Còn bốn chất khí dưới đặc hơn (chất khí làm ra cõi Bồ Đề, Thượng giới, Trung giới và Hạ giới) cấu thành những tinh cầu và bao bọc chúng nó. Mấy tinh cầu nầy không tiếp xúc, không thông đồng với nhau ở trên không gian. Ở cõi Bồ Đề, những hành tinh của một hệ thống tiến hóa đều thông đồng với nhau. Các Thánh kinh đều có nói đến Bảy Vị Thiên Đế. Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo có 7 vị Đại Thiên thần. Hỏa Thần Giáo (đạo của Zoroastre) thì gọi 7 vị Amshaspends; đạo Hê brơ (Hy bà lai) kêu là 7 vị Séphiroths; còn Thông Thiên Học gọi là 7 vị Hành Tinh Thượng Đế (7 Logoi). Các Ngài là Chúa tể của 7 hành tinh sau nầy: Hỏa tinh (Vulcain), Kim tinh (Vénus), Địa cầu (Terre), Mộc tinh (Jupiter), Thổ tinh (Saturne), Thiên Vương tinh (Uranus) và Hải Vương tinh (Neptune).
Mỗi hành tinh là một khúc quanh của một dãy hành tinh, liên quan với nhau và dưới quyền coi sóc của một vị Hành Tinh Thượng Đế. Một dãy là một trường tấn hóa riêng biệt, từ mới sơ khai cho đến khi con người sanh ra. Trong mỗi Thái dương hệ có 7 trường tấn hóa phụ thuộc như thế, lẽ dĩ nhiên là phải ở vào những giai đoạn tiến triển khác nhau. Mỗi dãy gồm 7 bầu hành tinh mà lệ thường, trong đó có một bầu làm bằng chất hồng trần, còn 6 bầu kia làm bằng những chất tinh tế hơn. Trong dãy hành tinh của chúng ta thì có Trái đất và hai bầu khác là Hỏa tinh (Mars) và Thủy tinh (Mercure) con mắt phàm thấy được, cùng 4 bầu khác không thấy được. Làn sống sanh tồn tiến bộ đưa nhơn vật tiến lên và chỉ ở tại mỗi bầu một lần mà thôi (trừ ra vài ngoại lệ, kể ra đây không ích chi). Khi nhơn vật học hỏi xong những bài học ở bầu đó rồi thì tiến qua bầu khác kế đó. Nhơn loại chúng ta đã đi từ bầu thứ nhứt ở tại cõi Thượng giới, tới bầu thứ hai ở Trung giới, tới bầu thứ ba là Hỏa tinh, rồi qua bầu thứ tư là Địa cầu của mình đương ở bây giờ. Nhơn loại sẽ bỏ Địa cầu để qua bầu thứ năm là Thủy tinh, rồi lên bầu thứ sáu trở lại cõi Trung giới, và chót hết là bầu thứ bảy ở cõi Thượng giới. Giáp một vòng 7 bầu như vậy Thông Thiên Học gọi là một cuộc tuần hoàn tiến hóa, rất đúng.
Hệ thống tiến hóa nầy bao la bát ngát, người còn dốt nát không thể hiểu nổi, mà hệ thống Thiên văn học hiện kim cũng không thấu rõ vì nó chỉ chuyên môn luận giải về cảnh Hồng trần mà thôi. Vả lại cũng chẳng cần gì tất cả thiên hạ phải hiểu rõ điều nầy vì nó không cần thiết liền cho đời sống. Sự hiểu biết nó chỉ có ích cho người nào vì muốn thấu rõ nên đem hết tâm trí nghiên cứu những vấn đề sâu xa về vạn vật và không hề lùi bước khi cần phải hết sức cố gắng để suy nghĩ.
CON NGƯỜI VÀ NHỮNG THẾ GIỚI CỦA NÓ.
Con người là một Điểm Linh Quang lấy xác phàm đặng thâu thập những kinh nghiệm ở mấy cõi thấp hơn cõi Đại Niết Bàn hầu làm chủ và cai trị chúng nó, rồi muôn vạn thế kỷ sau sẽ được vào hàng các vị Thiên Đế để chỉ huy và sanh hóa vũ trụ.
Một luật đại đồng trong vũ trụ định rằng một Ý thức (Tâm thức) hiểu biết được cái gì mà nó có thể mô phỏng lại được, một ý thức nầy hiểu biết được một ý thức khác là khi nào nó tự mô phỏng lại được những sự biến chuyển đã xảy ra trong ý thức khác đó. Nếu một người kia đau đớn vì sự khổ cực của một người khác, nếu va sung sướng khi một kẻ khác hưởng hạnh phúc, nếu va cảm thấy lo âu hay tin cậy v.v. . . một lượt với một người nào và đồng thời ý thức miêu tả được cảm tình của người đó thì va mới thật hiểu người đó. Sự thiện cảm là điều kiện của sự hiểu biết mà ý thức tác động trong những thể; mấy thể nầy do vật chất cấu thành. Ý thức [3] (Tâm thức) thì ảnh hưởng tới ý thức được, nhưng mà làm sao ý thức ảnh hưởng đến các thể bây giờ ?
Do đó có một định luật khác là: Khi có một sự thay đổi trong ý thức thì lập tức có một sự rung động sanh ra trong chất khí ở kế một bên và mỗi sự thay đổi nào cũng đều có sự rung động riêng của nó ứng đáp lại: cũng như một tiếng đờn luôn luôn tương ứng với sợi dây đờn, dài hay ngắn, to hay nhỏ cũng vậy, cả hai đều ăn rập với nhau.
Trong một Thái dương hệ, tất cả những ý thức riêng biệt đều là những phần tử của ý thức thiêng liêng của Đức Thượng Đế, chủ tể hệ thống, và hết thảy chất khí của hệ thống làm ra thân thể Ngài. Ngài tạo thành chất nầy và cho nó liên lạc với Ngài, thế nên khắp nơi, nó ứng đáp lại với không biết bao nhiêu sự thay đổi trong ý thức của Ngài, bằng những cách rung động khác nhau, và những cái nầy thì tương xứng với những cái kia. Khắp nơi trong bờ cõi rộng lớn bao la của Ngài, ý thức của Ngài và vật chất của Ngài đều ứng đáp lẫn nhau với một sự điều hòa hoàn toàn và bất diệt, cùng với một sự liên quan bất khả xâm phạm.
Con người chia sớt sự liên quan nầy với Đức Thượng Đế, nhưng chỉ với một cách yếu ớt và sơ lược. Khi ý thức con người thay đổi thì các chất ở chung quanh con người rung động đặng ứng đáp lại, nhưng sự ứng đáp nầy chỉ được hoàn toàn và đầy đủ hồi ban sơ, chỉ ở tại cõi Đại Niết Bàn mà thôi, nơi đó Đức Thượng Đế đã sáng tạo con người. Tại cõi ấy, mỗi sự rung động của vật chất đều sanh ra một sự thay đổi trong ý thức con người, thế nên con người biết được cõi đó, là chỗ nó sanh ra và gia đình nó. Nhưng ở mấy cõi dưới, chất khí dầy đặc hơn cõi Đại Thiêng liêng nầy, nên con người chỉ là một vị khách lạ, những sự rung động của chất nặng nề nầy, mặc dầu bao bọc con người khắp nơi, nhưng không cảm con người được; đối với con người, những sự rung động nầy cũng như không có, không khác nào những làn sóng vô tuyến điện truyền tin đi mà không cảm chúng ta được. Đối với giác quan ta những làn sóng đó không có thật. Theo những điều kiện nầy thì con người phải làm sao đặng khôn lớn, hầu giống như cha mình là Đấng Chí Tôn. Đối với Ngài mỗi sự rung động đều đem lại một tin tức. Ngài có thể sanh ra bắt câu sự rung động nào trong vật chất bằng cách thay đổi ý thức của Ngài. Trong Thái dương hệ không có một chỗ nào mà không có Ngài hoạt động, không có một việc nào xảy ra, bất kỳ ở nơi đâu mà Ngài không hay biết (tức là Thượng Đế vô sở bất tại và toàn tri toàn năng). Về câu hỏi trên đây ta có thể trả lời bằng hai tiếng: Nhập thế hay Nội bao và Tiến hóa hay Phản bổn hoàn nguyên.
Nhập thế hay Nội bao (Involution) nghĩa là lấy một lớp bao mình làm bằng chất khí của những cõi: Niết Bàn, Bồ Đề, Thượng giới, Trung giới và Hạ giới hay Phàm trần. Nội bao cũng gọi là Chơn thần nhập vô vật chất hay là “Con người bị rớt xuống”. Khi bao mình xong rồi, con người phải lần hồi tìm hiểu những sự việc xảy ra trong người mình, trong tâm mình, những sự thay đổi rất kinh ngạc, hãi hùng; chúng nó hiện đến vang dậy rồi biến mất ngoài ý muốn của con người. Chúng nó là những sự rung động gây ra trong thể xác do những sự rung động của một cõi đời rộng lớn bao la đương bao bọc con người. Chúng nó bắt buộc con người phải thay đổi những trạng thái tâm thức mà con người không bao giờ muốn tìm kiếm chút nào. Con người phải phân tích chúng nó, qui chúng nó về nguồn gốc và nhờ chúng nó giúp con người hiểu biết những cõi ở chung quanh với tất cả các chi tiết. Con người tổ chức mấy thể của mình lại thành ra những nhân viên thụ cảm và biết phân biệt càng ngày càng phức tạp để tùy ý mình thâu nhận những rung động nào hạp và thải ra ngoài những rung động nào chống chỏi với nhau. Sau rốt, con người nhờ những rung động làm trung gian đem những sự thay đổi trong tâm mình ghi dấu vết vào vật chất ở ngoại cảnh. Như thế sẽ thành chủ nhơn của tạo vật, chớ không làm nô lệ nữa.
Đó là sự tấn hóa, đó là Chơn thần vượt lên trên vật chất, sự phát triển của nó ở trong lớp vỏ, làm bằng chất khí của những cõi ở chung quanh. Chơn thần đem sự sống của mình thấm nhuần chất khí đã thâu thập, biến đổi nó ra một đứa tớ ngoan ngoãn biết phục tùng tinh thần. Như thế, Chơn thần đem nó ra khỏi vai tuồng thô kịch để nó phụng sự mấy đứa con của Đức Thượng Đế đã được giải thoát.
Cái vỏ vật chất nầy làm bằng chất khí của những cõi khác nhau, phải được tổ chức lần lần để thành ra một thể hay là vận cụ của ý thức do những ảnh hưởng ở ngoài và sự ứng đáp của nội tâm. Nó được xếp đặt theo cách từ thấp lên cao hay từ chất đặc đến chất tinh tế; những vật liệu lấy ở mỗi cõi phải tổ chức riêng biệt đặng cho vật liệu ở cõi nào thì thâu nhận những sự truyền đạt của cõi đó và một mặt thì ảnh hưởng đến cõi đó. Trước hết, những chất khí ở cõi trần, tập trung lại làm một khối đủ sức cứng rắn; kế đó những cơ quan cần thiết cho sự sống. Cũng thế đó những cơ quan của các giác quan đều lần lần phát triển. Xác thịt kỳ diệu và phức tạp nầy tấn hóa như thế đã cả chục triệu năm rồi và bây giờ vẫn còn tiếp tục tấn hóa. Nó làm cho con người tiếp xúc với cõi trần, nó giúp cho con người thấy được, nghe được, rờ rẫm được, nếm được, ngửi được. Con người sanh ra những biến đổi ở cõi trần bằng cách dùng cái óc và những dây thần kinh, điều khiển và kềm chế những bắp thịt, tay và chơn. Thể xác nầy chưa được hoàn toàn bởi vì trong cõi trần gian bao bọc nó, còn nhiều chuyện mà nó chưa ứng đáp được như: những hình dạng như nguyên tử nó không thấy được; những tiếng nó không nghe thấy được; những lực nó không biết được, khi mà nó chưa khai triển những khối lớn vật chất đặng thấy những hiệu quả sanh ra. Nó chế ra những dụng cụ tinh xảo để trợ giúp những giác quan và tăng gia phạm vi tri giác, tỷ như những kính viễn vọng, những kính hiển vi để giúp con mắt, những máy vi âm để giúp lỗ tai; những điện kế để tìm những lực ngoài sức nhận thức của giác quan. Nhưng mà sau nầy, sự tấn hóa của xác thịt sẽ đem hết cõi trần về địa hạt của nó.
Thể xác ngày nay được tổ chức đến bực khá cao; chất khí kế đó tinh tế hơn gọi là chất thanh khí, tới phiên nó tấn hóa cũng như chất hồng trần: nó dắt con người lần lần tiếp xúc với cõi Trung giới, tức là cõi của tình cảm, tình dục và ham muốn, cũng đương bao bọc con người. Nhiều người thuộc về những giống dân đã tấn hóa, bắt đầu thấy mình có liên lạc chút ít với cõi Trung giới, có người lại phân biệt được cõi ấy một cách rành rẽ hơn. Sự linh cảm nghi ngờ trong bụng có việc gì xảy ra (trong lòng phập phòng), lời cảnh cáo (sự báo cho biết trước việc sẽ đến), sự giao thiệp với người chết, sự báo mộng v. v. . . đều do ở cõi Trung giới đưa lại và cảm đến cái Vía. Thường thường chúng nó mơ hồ và hỗn độn vì tới ngày nay sự cấu tạo cái Vía vẫn còn quá khuyết điểm. Nhưng người nào đã luyện tập cái Vía cho nó tấn hóa cao rồi thì có thể sử dụng cõi Trung giới cũng như chúng ta đều sử dụng cõi trần vậy. Trạng thái thứ ba của vật chất là cái Trí, hiện giờ còn ở trong thời kỳ tổ chức, nó làm cho con người tiếp xúc với cõi Trí tuệ cũng đương bao bọc nó. Lần lần cái Trí tấn hóa, con người thâu nhận được những làn sóng tư tưởng và hiểu biết chúng nó; con người cũng giao thiệp được với kẻ khác bằng cái Trí, mặc dầu mấy người đó ở gần hay xa, còn sống hay đã thác rồi.
Sau đó con người còn phải chiến thắng ở hai cõi Thiêng liêng: cõi Bồ Đề và cõi Niết Bàn. Hai cõi nầy cũng có hai thể thích hợp với chúng nó; ấy là Kim thân và Tiên thể. Ông thánh Phao Lồ (St. Paul) gọi chung chúng nó là thể Thiêng liêng. Sự tổ chức vật chất nầy để cho nó thành ra tôi tớ của Chơn linh; là nhiệm vụ chỉ định cho con người ở trong cái xưởng vĩ đại của Vũ trụ và khi giai đoạn làm người đã kết liễu thì trong Thái dương hệ không còn cái chi mà con người không hiểu biết và không cảm hóa được. Chơn linh vốn dòng dõi của Đức Thượng Đế nó rất trong sạch nhưng ngoại trừ cõi huyền diệu Đại Niết Bàn là nơi nó sanh ra thì nó còn vô minh và vô ích. Nó trở về quê nhà sau một thời gian hành hương rất lâu dài; bây giờ nó là một người con của Đức Thượng Đế, toàn năng toàn thiện, sẵn sàng lãnh nhiệm vụ của một Thiên sứ để thi hành ý chí của Đức Thượng Đế từ thời đại nầy qua thời đại kia, trong một trường hoạt động càng ngày càng rộng với phận sự càng ngày càng lớn.
CON NGƯỜI VÀ NHỮNG THỂ HƯ HOẠI
Có ba thế giới mà con người luân chuyển trong vòng sanh tử để tấn hóa là: Hạ giới (cõi trần), Trung giới (dục giới) và Thượng giới (Thiên đàng). Con người sanh hoạt tại ba cõi nầy từ khi mới chào đời cho đến lúc bỏ xác, trong lúc thức đây; con người sanh hoạt tại cõi Trung giới trong lúc ngủ và trong một thời gian sau khi chết. Có một đôi khi, con người vào cõi Thượng giới trong lúc ngủ hay lúc đi thiếp (ngủ thật mê) nhưng điều nầy ít có lắm. Chính là tại cõi Thượng giới hay là Thiên đường mà con người trải qua một thời gian rất quan trọng, sau khi chết, thời gian nầy kéo dài ra lần lượt khi con người tấn hóa. Ba thể mà con người dùng để hoạt động trong ba cõi nầy đều hư hoại. Chúng nó sẽ chết vì hễ có sanh thì có tử. Từ kiếp nầy qua kiếp kia, chúng nó càng ngày càng cải thiện và càng xứng đáng trở nên những dụng cụ để cho Chơn thần dùng trong khi phát triển. Ba thể nầy là những thể làm bằng chất nặng nề, mô phỏng theo những thể thiêng liêng bất diệt, không ở dưới quyền của sự sanh và sự tử tại phàm gian. Những thể thiêng liêng nầy là y phục của Chơn thần ở mấy cõi cao, nơi đó Chơn thần sống với tư cách là con người thiêng liêng; còn ở phàm trần, Chơn thần sống với tư cách là con người xác thịt (chương sau sẽ nói về những thể thiêng liêng nầy).
Như chúng ta đã thấy: ba thể hư hoại là xác thân, vía và trí, chúng nó liên lạc với ba cõi: Hạ giới, Trung giới và Thượng giới.
XÁC THÂN
Hiện giờ, xác thịt là thể mở mang hơn hết trong những thể của con người: ấy là thể thân mật với ta hơn hết. Nó làm bằng chất đặc, chất lỏng, chất hơi và tinh khí hay là dĩ thái. Chất đặc, chất lỏng và chất hơi cấu tạo một cách hết sức tốt đẹp, làm ra những tế bào, những tổ chức, những cơ quan, giúp cho ý thức tiếp xúc với ngoại giới. Những cơ quan nầy có những chỗ bí yếu xây tròn như bánh xe (luân xa), do đó thần lực từ cõi trên tuôn vào mình con người.
Bởi vì sau khi con người thác, phần làm bằng chất dĩ thái hay tinh khí tách riêng ra khỏi cái phần làm bằng ba chất kia cho nên người ta mới chia thể xác ra làm hai phần: một là xác thịt, hai là cái phách. Xác thịt gồm những cơ quan để thụ lãnh và hoạt động; cái phách làm trung gian để đem sanh lực truyền qua xác thịt. Trong lúc còn sống, nếu cái phách lìa khỏi xác thịt là điều nguy hiểm. Khi cái phách bị bắt buộc ra khỏi xác thịt tỷ như lúc con người hít thuốc mê thì nó đi thơ thẩn trong không khí và có khi nó nhập vô mình những người mà cơ thể ở trong trạng thái dị thường, gọi là đồng cốt. Mặc dầu cái phách là trung tâm thần lực, khi nó lìa khỏi xác rồi, nó không có tri giác, nó đi phiêu bạt như đám mây, không mục tiêu, không có một chỗ nào để truyền thần lực còn tiềm tàng ở trong mình nó. Có khi mấy anh bàn môn lợi dụng nó để làm trung tâm đặng hiện hình ra. Cái phách không rời xa xác thịt được; nếu không còn dính với xác thịt nữa thì xác thịt phải chết vì không tiếp được sanh lực để giúp nó hoạt động. Sau khi con người từ trần, cái phách bay vơ vẩn gần một bên cái xác, có khi người ta thấy nó lảng vảng bên mả nên gọi là ma.
Xác thịt dùng làm trung gian để con người tiếp xúc với cõi trần. Vì cớ đó có khi người ta gọi nó là “thể hoạt động” ngoài ra nó còn tiếp nhận được những sự rung động ở những cõi tinh vi (mấy cõi cao) và khi nó đủ sức mô phỏng lại những sự rung động nầy trong chất hồng trần nhờ thần kinh hệ tổ chức về việc ấy thì người ta nói: nó cảm giác, nó “tư tưởng”. Cũng như khí trời tuy ta không thấy được nhưng khi chuyển động mạnh, nó tạo ra những lằn gợn trên mặt nước đông đặc hơn nó, cũng như ánh sáng mặt trời, tuy không rờ được, nhưng làm cho những tế bào của võng mạc hoạt động (thành những hình gậy hoặc hình nón), cũng thế ấy, chất khí vô hình của mấy cõi cao sanh ra những lằn rung động tương xứng trong chất nặng nề của xác thịt và của cái phách. Lần lượt xác thịt tiến hóa, nghĩa là nó càng thâu thập vô mình những chất hóa hợp tinh vi của ngoại giới thì nó càng ứng đáp được với lằn sóng rung động càng ngày càng mau lẹ. Con người thành ra càng ngày càng thêm nhạy cảm. Sự tấn hóa của một giống dân tộc, một phần lớn, do ở chỗ thần kinh hệ cảm xúc lẹ làng càng ngày càng tiếp tục tăng gia đối với ảnh hưởng ở ngoài. Tuy nhiên, muốn cho sức khỏe được vững vàng thì sức cảm giác phải có chừng mực, nói một cách khác, sau khi chuyển động vặn xe rồi, bộ thần kinh phải lập tức trở lại trạng thái bình thường; khi thực hiện được điều nầy thì sự cảm giác phát triển đến mức cao tột của lượn sóng tiến hóa và có thể phát hiện được thiên tài. Trái lại, nếu sự quân bình không phục hồi được, tự nhiên và lẹ làng, thì sự cảm giác mắc bịnh và trở nên nguy hiểm, nó dắt đến sự suy đồi và cuối cùng là điên khùng, nếu không có chi ngăn cản nó lại.
CÁI VÍA
Trình độ phát triển của thể nầy khác nhau vô cùng, tùy theo mỗi người; nhưng người nào cũng vậy, sự kinh nghiệm của điều vui vẻ hoặc đau khổ đều do cái Vía sanh ra. Nó hành động vì dục tình, sự ham muốn và cảm giác sai khiến. Những trung tâm điểm của các cơ quan của ngũ quan đều ở trong cái Vía. Khi tình dục, sự ham muốn và cảm giác thấp hèn vì nhục dục và thú tánh thì chất thanh khí làm ra cái Vía phải thô kịch, cho nên những sự rung động của nó phải chậm chạp và những màu của nó (nâu, đỏ và xanh đậm) thì tối sẫm và không đẹp mắt chút nào; thỉnh thoảng có những tia chớp màu đỏ hồng chiếu sáng nó. Màu đỏ nâu chỉ về sự thích nhục dục, tham lam và khát vọng. Màu xám xanh (xanh lá cây và xám dợt) chỉ về sự xảo quyệt mưu mô hay là lường gạt. Màu nâu chỉ về tánh tật đố ích kỷ. Màu đỏ hồng bên trái cái đầu chỉ sự giận giũi. Màu vàng chung quanh đầu chỉ về trí khôn. Màu xanh dương pha lẫn màu xám dợt ở trên đầu là dấu chứng lòng mộ đạo nhưng tánh còn chất phác (như sùng bái những hình tượng) theo giống dân tộc còn dã man như thờ cục đá, gốc cây. Màu hường sậm là dấu hiệu bắt đầu có lòng yêu thương. Sự tấn hóa càng ngày càng lên cao thì chất thanh khí làm cái Vía càng ngày càng tinh tế, màu sắc càng ngày càng tươi, càng trong trẻo và rực rỡ.
Chúng ta dùng cái Vía trong tất cả những giờ ta thức; còn về cái Vía của những người trí thức và tánh tình nhã nhặn thì đã tiến đến mức khá cao; chất khí mịn màng hơn hết của nó tiếp xúc thân mật với chất nặng hơn hết của cái Trí. Hai thể nầy (cái Trí và cái Vía) luôn luôn hành động chung với nhau, thể nầy và thể kia ảnh hưởng lẫn nhau.
Thường lệ, cái Vía thay đổi màu sắc mỗi khi tánh tình thay đổi. Khi tánh ích kỷ, quỷ quyệt, phẩn nộ đã tiêu tan thì người ta thấy màu đỏ sậm tăng lên to tác, tương ứng với sự thương yêu. Thật vậy, người ta nhận thấy có nhiều sự thay đổi xấu xa, nhưng mà như thế là những cửa vàng đã hé mở cho người đương học tập kinh nghiệm, nếu chúng nó đóng lại thì ấy là lỗi của con người.
Đây là những kết quả rùng rợn sanh sản trên cái Vía do một cuộc giận dữ. Toàn thể cái Vía lộ ra những quầng đen ghê gớm và từ đó phóng ra những mũi tên đỏ như lửa, tìm thế đi ngay đến người mình giận; nói một cách tổng quát, ấy là một cảnh tượng dữ dội phi thường và thật là khủng khiếp [4].
Trong lúc ngủ, cái Vía thoát ra khỏi xác thịt, đi chung với cái Trí và những thể cao hơn. Đối với những người trí thức thì tâm thức hoạt động trong cái Vía, lúc xác thịt ngủ yên. Như thế trong giấc ngủ, ta học rất nhiều, và những điều học hỏi theo cách đó, thâm nhiễm lần lần vào cái óc xác thịt và có khi ghi vào cái óc bằng những điềm chiêm bao rõ ràng và sáng suốt. Thường thường tâm thức ít quan tâm đến những việc xảy ra ở cõi Trung giới, nó say sưa với những tình cảm và những tư tưởng riêng biệt của nó, nhưng có thể quay tâm thức nầy ra ngoài và nhờ vậy, ta hiểu biết được cõi Trung giới. Tại đây ta giao thiệp được với những bạn ta đã bỏ xác phàm và lúc thức dậy ta cũng còn nhớ lại đủ mọi việc, như thế ta lấp được cái hố chia rẽ người sống và kẻ chết.
Những cảm giác riêng như báo trước việc sẽ đến cho mình (như nháy mắt, nhảy mũi [5]), nghi ngờ trong lòng có việc gì xảy ra, cảm biết có người khuất mặt ở một bên và nhiều điều kinh nghiệm khác cùng một loại, là sự hoạt động của cái Vía và những phản ứng của nó vào xác thịt.
Mấy việc nầy càng ngày tăng gia, đó là kết quả của sự tấn hóa của cái Vía ở trong đám người tri thức. Trong vài thời đại nữa, cái Vía sẽ mở mang khắp đại chúng và nó sẽ thân mật với ta như xác thịt vậy. Sau khi ta thác rồi, ta sẽ sống trong một thời gian tại cõi Trung giới, cũng ở trong cái Vía của ta dùng hồi còn tại Trần. Thế nên, chúng ta càng tập kiểm soát cái Vía và tập dùng nó một cách khôn ngoan chừng nào thì việc đó càng hữu ích cho ta chừng nấy, sau khi ta bỏ xác.
CÁI TRÍ
Cái Trí làm bằng chất tinh vi hơn chất của cái Vía, cũng như chất của cái Vía tinh vi hơn chất làm ra xác thịt. Đặc tính của nó là rung động đặng ứng đáp với những sự thay đổi trong tư tưởng. Mỗi sự thay đổi nào trong tư tưởng cũng đều sanh một sự rung động trong cái Trí, và sự rung động nầy, nhờ cái Vía truyền qua xác thịt và làm cho chất thần kinh của cái óc hoạt động. Sự hoạt động của tế bào thần kinh sanh ra nhiều hiệu quả điện khí và hóa học nhưng đó là sự hoạt động của tư tưởng sanh ra những hiệu quả ấy chớ không phải những hiệu quả ấy sanh ra tư tưởng như các nhà duy vật của thế kỷ thứ 19 đã tưởng tượng ra như vậy.
Cái Trí cũng như cái Vía, tùy theo mỗi người mà khác nhau rất xa. Nó làm bằng chất thô kịch hay tinh vi nhiều hay ít tùy theo những sự nhu cầu của những ý thức đã dùng nó mở mang nhiều hay ít. Cái Trí của những người trí thức thì lanh lẹ và có hình dạng đều đặn, còn đối với những người chưa mở mang thì nó như đám mây mù và không cảm giác. Chất khí làm cái Trí lấy ở cõi Thượng giới cũng gọi là Thiên đường. Nó chuyển động luôn luôn bởi vì con người tư tưởng không những lúc còn thức đây mà trong lúc ngủ và sau khi con người bỏ xác cũng tư tưởng vậy. Con người sống trọn vẹn trong tình cảm và tư tưởng khi nó bỏ cái Vía đặng lên cõi Thiên đường. Biết rằng chúng ta phải trải qua nhiều thế kỷ ở trong cái Trí, thì điều hợp lý là phải rán hết sức mình để cải thiện nó lúc còn ở trần gian. Những phương pháp dùng để đạt được mục đích đó là: học tập, tư tưởng, cảm giác đẹp đẽ liên tục những ước vọng (cầu nguyện) cố gắng làm lành và điều cần thiết hơn hết là tham thiền sốt sắng luôn luôn không gián đoạn. Những sự thực hành khác nhau nầy giúp cho cái Trí tấn hóa rất mau và kiếp sống trên Thiên đường được phong phú. Các loại tư tưởng xấu làm hoen ố và hư hại cái Trí, nếu con người nhứt quyết nuôi dưỡng chúng nó mãi thì cái Trí mắc bịnh và hư tổn, trọn kiếp sống của nó không thể chừa được.
Xác thân, Vía, Trí là ba thể hư hoại của con người. Con người bỏ xác thịt sau khi chết, rồi tới phiên bỏ cái Vía khi con người sắp sửa lên cõi Thiên đường. Khi mãn kỳ ở cõi Thiên đường thì cái Trí cũng tan rã; bấy giờ con người là Chơn thần ở trong những thể bất diệt. Khi trở xuống đầu thai, con người có một cái Trí mới, một cái Vía mới; hai thể nầy phù hợp với tánh tình con người và liên kết chặt chẽ với xác thịt.
Con người bước vào giai đoạn luân hồi sanh tử mới khác.
NHỮNG THỂ BẤT DIỆT HAY LÀ
TRƯỜNG SANH BẤT TỬ CỦA CON NGƯỜI
Ông Thánh Phao Lô (Saint Paul) một vị được điểm đạo của Cơ Đốc Giáo có nói: “Chúng ta có một chỗ trú ngụ, vốn của Đức Thượng Đế, một cái nhà không phải tự tay chúng ta cất ra, một chỗ ở đời đời kiếp kiếp trên Trời, bởi vì trong xác thân nầy chúng ta rên siết thở than, chúng ta muốn về Thiên đường (Corinthiens,V,1-2).
Cái Nhà ở trên Trời tức là cái nhà do những thể bất diệt của con người tạo ra, ấy là chỗ trú ngụ của Chơn thần, trải qua thời gian vô tận, nó cũng là chỗ ở của con người, trải qua vô lượng kiếp luân hồi trong lúc Chơn thần hiện ra giữa chốn trần ai.
Chơn thần, “dòng giống của Đức Thượng Đế” (Công vụ của các Sứ đồ XVII, 29) ở luôn luôn trong lòng Đức Cha Trời, Chơn thần thật là con của Ngài, chia sớt sự sống vô cùng vô tận của Ngài. Đức Thượng Đế tạo con người đặng tượng trưng hình ảnh bất diệt của Ngài. (Đức Minh Triết của Salomon, La Sagesse de Salomon II, 23). Chơn thần nầy, chúng ta gọi là Monade, bởi vì nó là một đơn vị, tinh hoa của Bản ngã. Chơn thần nhập vô vật chất để chinh phục nó và tinh thần hóa nó: Ngài lấy một nguyên tử của mỗi cõi, trong ba cõi cao: Niết bàn, Bồ đề, Thượng giới để làm cái nhân của ba thể cao là Tiên thể, Kim thân và Thượng trí. Có một sợi dây làm bằng chất khí cõi Bồ đề nối liền ba thể nầy với nguyên tử của ba cõi thấp để làm hột giống của ba thể: Hạ trí, Vía và Xác thân.
Trải qua một thời gian dài đăng đẳng, Chơn thần nuôi dưỡng ba thể vị lai vì hư hoại: Trí, Vía, Xác, với sự sống của Ngài. Chơn thần tiến lên lần lần, trải qua các giới Kim thạch, Thảo mộc và Cầm thú trong lúc đó chất khí của ba cõi cao: (Niết bàn, Bồ đề, Thượng giới) kết hợp với nhau làm thành một vận hà để truyền bá sự sống của Ngài vừa phát triển ở mấy cõi nầy.
Khi con thú tấn hóa đến trình độ tột bực cao (của loài thú) và kêu gọi đến sự sống cao cả một cách mãnh liệt thì Chơn thần ứng đáp bằng cách đưa xuống một nguồn sống do vận hà trên đây để làm Thượng trí của con thú. Cái Trí của con thú thình lình được bổ túc cũng như ánh sáng bực chiếu lên giữa những cục than của một hồ quang (arc électrique). Con thú được đi đầu thai làm người, điều nầy cũng gọi là con người có cá thể ở mấy cõi dưới.
TIÊN THỂ hay thể Tối Thiêng liêng chỉ là một nguyên tử của cõi Niết bàn, một sợi dây làm bằng chất khí tinh vi, ấy là hiện thân của Chơn linh, theo nghĩa thật đúng Chơn linh là Đức Thượng Đế lấy xác phàm, tức là Thượng Đế giam mình trong biển cả vật chất, nhưng không hề mất bản tánh thiêng liêng mặc dầu đã hóa thân. Cái kết quả thanh lọc của biết bao nhiêu kinh nghiệm, tàng trữ trong thời gian vô tận, cứ tuần tự phải qua trong Tiên thể; hai thể bất hoại thấp hơn là Kim thân và Thượng trí lần lần hợp nhứt với nó để làm một bộ y phục vẻ vang cho một người thiêng liêng đã trọn lành.
KIM THÂN thuộc về cõi thứ nhì hiện ra; cõi nầy là cõi Linh giác thuần khiết [6], nơi đây, sự hiểu biết và tình bác ái hiệp làm một. Người ta cũng gọi thể nầy là thể của Đấng Christ, bởi vì nó bắt đầu hoạt động khi được điểm đạo lần thứ nhứt và cứ phát triển cho tới khi được toàn thiện như Đấng Christ trên con đường Chí thánh. Thể nầy phát triển là nhờ tất cả những nguyện vọng yêu thương cao thượng và không vụ lợi, lòng từ bi thuần khiết, tình thân ái và tánh thương xót muôn loài vạn vật nuôi dưỡng nó.
THƯỢNG TRÍ cũng gọi là Nhân thể (Corps causal), là một thể để cho con người đề cập đến những quan niệm trừu tượng vì nó là “bản tánh của sự hiểu biết” (Prashna Upanishad IV,9).
Nhờ Thượng trí mà con người hiểu biết chơn lý bằng trực giác chớ không phải bằng lý luận, và chỉ mượn ở Hạ trí những phương pháp luận biện đặng chứng minh ở cõi dưới những chơn lý trừu tượng mà Thượng trí không hiểu một cách trực tiếp.
Con người ở trong thể nầy gọi là Chơn nhơn, khi thể nầy hòa hợp với Kim thân thì Chơn nhơn thành ra “Linh giác Chơn nhơn” (Égo Spirituel) và bắt đầu hiểu biết bản tánh thiêng liêng của mình. Thể nầy được bảo tồn và phát triển là nhờ tham thiền bền lâu, dứt tuyệt dục vọng và đem trí tuệ giúp đời.
Bản tánh nó là chia rẽ vì nó là dụng cụ của sự thành lập cá thể, nó phải trở nên mạnh mẽ và tự túc hầu có sự bền vững cần thiết cho Kim thân là thể thiêng liêng tinh vi mà nó phải liên hiệp mật thiết.
Tiên thể, Kim thân, Thượng trí là những thể trường sanh bất tử của con người; chúng nó không bị mắc vào vòng sanh tử luân hồi. Chúng nó tạo ra sự nhớ mãi không hề quên, một ký ức không gián đoạn, đó là tinh hoa của Chơn nhơn. Chúng nó thiết lập một cái “Khánh” (Thánh mạc, Tabernacle) để chứa cái gì đáng được trường sanh bất tử. Cái chi làm hoen ố không thể vô đó được, chúng nó là chỗ trú ngụ đời đời của Chơn thần. Tại đó ta thấy ứng nghiệm lời hứa hẹn nầy: “Ta sẽ ở đó và đi lại nơi đó” (Corinthiens, VI, 16). “Chúng nó đã nhận lời cầu nguyện của Đấng Christ. Cầu xin chúng nó cũng được hiệp nhứt với chúng ta” (Saint Jean XVII, 21).
Chúng nó chứng minh tiếng hoan hô đắc thắng của nhà tu hành Ấn Độ: “Ta là NGƯỜI”.
LUẬT LUÂN HỒI
Luân hồi trong quá khứ
Chắc chắn trên đời, không có một giáo lý triết học nào có một Phổ hệ trí thức vẻ vang bằng thuyết Luân hồi, nghĩa là sự phát triển nhơn loại trải qua những kiếp sống tuần hoàn, có định kỳ ở thế gian. Một ít kinh nghiệm thâu thập trong khoảng đời sống ở trần thế biến đổi thành trí năng và ý thức trong khi con người trở về cõi Thiên đường, đặng khi đứa nhỏ sanh ra nó có sẵn những kinh nghiệm kiếp trước, biến chất thành ra những khuynh hướng và quyền năng trí thức và đạo đức. Ông Max Muller quan sát một cách đúng đắn khi ông nói rằng: Các bực đại trí trong nhơn loại đều công nhận sự Luân hồi. Những thiên Anh hùng ca bên Ấn Độ đều có dạy về sự Luân hồi và nói rằng ấy là một việc xác thật, không ai chối cãi được. Nó để làm căn bản cho đạo đức và văn nghệ huy hoàng của Ấn Độ, làm cho các nhà trí thức Âu châu phải ngưỡng mộ, đều thấm nhuần giáo lý của nó.
Đức Phật đã dạy sự Luân hồi và thường nói về những tiền kiếp của Ngài. Đức Pythagore cũng dạy như thế; Platon có bàn về sự Luân hồi trong các sách triết lý của Ngài. Josèphe tuyên bố rằng những người Do thái đều công nhận sự Luân hồi và kể chuyện một vị tướng lãnh đã khuyến khích binh lính của ông rán chiến đấu cho đến lúc thở hơi cuối cùng bằng cách nhắc nhở cho họ nhớ rằng họ sẽ đầu thai lại cõi Trần.
Trong quyển “Đức Minh Triết của Salomon” (La Sagesse de Salomon) có nói rằng: sanh ra trong thể xác không có một tật nguyền là phần thưởng của những người đã làm lành. Đấng Christ công nhận sự Luân Hồi khi Ngài nói với các tín đồ: Jean Baptiste là nhà tiên tri Elie trở lại. Virgile và Ovide tin có sự Luân Hồi. Nghi thức do các nhà bác học Ai Cập bày ra để cho người ta ghi nhớ trong đầu óc rằng có sự Luân hồi. Những trường theo Tân thuyết Platon đều nói rằng: sự Luân Hồi có thật; và một vị Linh mục uyên bác nhứt là Origène giải bày rằng: “Người nào cũng phải lãnh một xác thân tùy theo những công trạng và những việc làm của va hồi trước”.
Mặc dầu thuyết Luân Hồi bị một Hội nghị Thiên Chúa Giáo La Mã lên án và cấm chỉ, những phái bị liệt vào hạng tà giáo đều giữ y nguyên thuyết cổ truyền. Hồi đời Trung cổ, một nhà bác học Hồi Giáo có nói với chúng ta về thuyết Luân Hồi như vầy: “Tôi ở trong đá, khi tôi chết, tôi thành ra một loài cây; tôi ở trong cây, khi tôi chết, tôi thành một con thú; tôi ở trong một con thú, tôi chết rồi thành ra con người. Tại sao tôi lại sợ chết ? Chừng nào sự chết làm cho tôi kém sút ? Tôi làm người, tôi sẽ chết và tôi làm một vị Thiên Thần”.
Sau đó ít lâu, ta lại thấy mấy vị sau đây cũng đem thuyết Luân Hồi ra dạy nữa: ấy là Goethe, Fichte, Schelling, Lessing. Đây mới kể sơ tên của vài nhà triết học Đức. Khi già rồi, ông Goethe vui vẻ nói trước rằng ông sẽ đầu thai lại ở cõi Trần. Ông Hume tuyên bố rằng thuyết Luân Hồi là giáo lý duy nhứt về sự trường sanh bất tử mà một nhà triết học có thể suy nghĩ; ý kiến nầy tương tự như quan niệm của giáo sư Tô cách lan (Ecossais) Mc Taggart, là người đã phê bình các lý luận về sự trường sanh bất tử. Ông kết luận rằng: duy có thuyết Luân Hồi là hợp lý hơn hết. Chẳng cần phải nhắc rằng: có nhiều văn sĩ như Wordworth, Browning, Rossetti và nhiều thi sĩ khác đều tin sự Luân Hồi.
Việc trở lại tin có sự Luân Hồi không phải là một tín ngưỡng của một giống dân dã man hiện tại trong dân tộc văn minh, nhưng đó là một sự giải thoát trí tưởng về sự lầm lạc của người đạo Da Tô, một dấu chứng để tu bổ các tai hại do sự bất hợp lý của tôn giáo gây nên và nó đã tạo ra “Hoài nghi chủ nghĩa” và “Duy vật chủ nghĩa”.
Quả quyết rằng khi mỗi xác thịt sanh ra thì phải sanh ra một linh hồn riêng cho nó thì ám chỉ rằng: sự sanh hóa một linh hồn tùy thuộc sự sanh hóa một xác thịt. Thế thì không tránh khỏi sự kết luận rằng: khi xác thịt chết thì linh hồn cũng phải tiêu diệt theo. Chủ trương rằng một linh hồn không có dĩ vãng thì tự nhiên không hề có cứu cánh, cũng chẳng khác nào tưởng tượng rằng: cây gậy chỉ có một đầu. Cái đó không thể thừa nhận được. Duy có một linh hồn thiên nhiên mới có hi vọng bất diệt được.
Việc quên mất giáo lý về Luân Hồi dạy rằng có một chỗ luyện tội tạm thời để tiêu diệt những tình dục xấu xa, và một cõi Thiên Đường hữu hạn để biến đổi những kinh nghiệm ra quyền năng làm cho người ta nảy sanh ra ý tưởng có một cõi Thiên Đường vô biên mà không có một người nào tốt và có một cõi Đía Ngục vô tận mà không có một người nào đáng kể là xấu. Điều ấy thâu ngắn sự tấn hóa của con người vào khoảng đời sống vô ý nghĩa, nó làm cho tương lai vô tận vô biên phải tùy thuộc những biến cố trong vài năm. Như thế, đời sống thành ra một sự hổn loạn không thể hiểu được, đầy những sự bất công, đầy những sự tư vị những bực thiên tài và những kẻ tội nhơn toàn là những người không xứng đáng với tài của mình hay là tội của mình.
Đây là một vấn đề mà người biết suy nghĩ không hề tán thành bao giờ, trừ ra những ai có đức tin mù quáng và không có căn bản mới công nhận mà thôi.
SỰ LUÂN HỒI RẤT CẦN THIẾT
Chỉ có ba cách giải thích về những sự bất bình đẳng của con người, những sự bất bình đẳng nầy do những năng lực, những thích nghi, hay là những cơ hội mà ra.
1. Sự sanh hóa đặc biệt (La Création spéciale) của Đức Thượng Đế, ám chỉ sự bất lực của con người; số mạng con người bị một ý chí độc đoán và vô lượng chỉ huy.
2. Sự di truyền (Truyền thống) như khoa học đã giải thích, ám chỉ con người cũng bất lực; con người chỉ là kết quả của một dĩ vãng mà nó không thể kiểm soát được.
3. Sự luân hồi. Ám chỉ con người có thể làm chủ vận mạng của mình được. Con người là kết quả của quá khứ, của cá nhơn mình, nghĩa là tự nó tạo ra.
Thuyết sáng tạo đặc biệt bị tất cả những người biết suy nghĩ bác bỏ, về sự giải thích những điều kiện quan trọng hơn hết là tánh nết của đứa nhỏ và gia đình, nơi đứa nhỏ sanh ra. Sự tấn hóa được nhìn nhận trong mọi việc chỉ trừ đời sống của Chơn Linh tức là con người. Con người không có một dĩ vãng cá nhơn mặc dầu nó có một tương lai cá nhơn vô cùng vô tận.
Lúc mới sanh ra, con người đã có sẵn tánh nết rồi và nó tùy thuộc vào tánh nết nầy hơn mấy việc khác; theo giả thuyết nầy thì số mạng của nó ở trên trần gian vốn của Trời tạo riêng cho nó và bắt buộc nó phải tuân theo chớ nó không chọn lựa chi được cả.
Sự sanh hóa không khác nào một cuộc xổ số, con người có thể bắt được một số tốt hay một số xấu; số xấu tức là duyên phần khổ sở, nó phải lãnh lấy, nghĩa là phải sao chịu vậy. Nếu phần nó được bẩm tánh tốt, tài năng siêu việt và bản tánh cao thượng thì càng hay cho nó; nó không có làm gì để xứng đáng được hưởng như thế. Nếu số phần nó bị tội gian ác di truyền, sự ngu xuẩn di truyền thì mặc kệ nó; nó không làm cái chi để đáng chịu quả ấy.
Nếu hạnh phúc luôn luôn cho một kẻ nầy, còn những thống khổ lại đeo theo người kia mãi mãi thì kẻ xấu số nầy phải chịu rủi ro đó. - Người thợ đồ gốm há chẳng dùng được đất sét để làm cái gì mà nó muốn hay sao ? Thật đáng buồn là cục đất sét biết cảm giác, phải không các bạn ?
Thuyết sanh hóa đặc biệt còn kỳ dị về nhiều phương diện khác nữa. – Thí dụ: Sanh một linh hồn đặc biệt cho một thể xác và thể xác nầy chết sau khi được vài giờ. Nếu đời sống trên thế gian có chút ít giá trị về phương diện giáo dục hay thực nghiệm thì linh hồn nầy chịu thiệt thòi khi lìa xác sớm như vậy. Ngoài ra, nếu đời sống nhơn loại ở trần thế chẳng có gì quan trọng và chắc chắn dẫy đầy những sự sai lầm và đau khổ mà chung qui có thể bị sa vào Địa ngục đời đời thì linh hồn nhập vô một thể xác sống lâu, bị bạc đãi gắt gao bởi vì nó phải chịu không biết bao nhiêu sự đau đớn ê chề trong khoảng thời gian dài đăng đẳng; nó sống ở cõi trần mà không có một lợi lộc nào bù đắp lại. Còn linh hồn bỏ xác sớm kia lại tránh được tất cả những sự hoạn nạn.
Bản kê khai những sự bất công về sự sanh hóa một linh hồn mới cho mỗi xác thịt có thể kéo dài ra vô cùng, bởi vì nó bao trùm tất cả những sự bất đồng đẳng. Sự giải nghĩa sai lầm nầy tạo ra cả triệu kẻ vô thần bởi vì đầu óc khôn ngoan không công nhận nó và trong lòng tại tức tối. Nó đặt con người vào tình trạng của một kẻ đứng trước chủ nợ vô cùng gắt gao khắc nghiệt không hề lay chuyển là Đức Thượng Đế. Con người mới hỏi Ngài một cách thảm thiết: “Tại sao Ngài sanh tôi ra như thế nầy”.
Giả thuyết của khoa học không nhạo báng thần thánh hơn thuyết sinh hóa đặc biệt, nhưng sự di truyền chỉ cắt nghĩa được về xác thịt chứ không rọi được ánh sáng nào về sự tấn hóa của trí thức và tâm thức. Lý luận của Đạt nhỉ văn (Darwin) toan bao hàm cả hai điều mới kể ra nhưng thất bại một cách chua cay khi cần phải giải nghĩa làm sao những đức tính xã hội có thể phát triển được trong khi phải tranh đấu đặng sống. Vả chăng, khi đến thời kỳ mà cha mẹ đạt được những tánh hạnh cao thượng thì thời kỳ sanh sản đã qua, trẻ nhỏ sanh ra phần nhiều lúc sanh lực của cha mẹ đương dồi dào, mà lúc ấy thì trí thức và đức tính chưa đầy đủ. Một mặt khác, những sự nghiệm xét từ lâu đã chứng minh rằng những tánh nết không hề di truyền và con người càng tiến lên cao thì con cái càng ngày càng ít.
Khoa học nói rằng: “Bực vĩ nhơn, bực thiên tài thì tuyệt tự vô hậu”. Như thế là tiếng chuông cáo phó sự tấn hóa của nhơn lọai đã gióng lên, nếu quả thật, sự di truyền là quyền năng chủ động của sự văn minh tiến bộ.
Trí thứ và năng lực sanh sản vẫn đi trái ngược nhau: cha mẹ càng thấp kém thì con cái càng nhiều. Khi chứng minh rằng tánh nết không di truyền thì khoa học đã đụng vào một vách thành đồng. Nó không giải thích được những sự kiện về sự thông minh tốt chúng và đời sống Thánh nhơn. Con của một Thánh nhơn có thể là đứa chơi bời trụy lạc, con của bực thiên tài có thể là một đứa đần độn. Tục rằng: “Kẻ thiên tài ở trên trời xuống”.
Về phương diện Khoa học thì bực thiên tài làm vẻ vang cho nhơn loại, dường như ở ngoài vòng “Nhân và Quả”. Khoa học không nói cho chúng ta biết, làm thế nào mà đào tạo những bực Đại trí thức và những tâm hồn trong sạch cho tương lai. Nó không hăm dọa ta với một ý chí độc tài, nhưng nó không giải cho ta nghe về vấn đề “Bất đồng đẳng giữa nhơn loại”. Nó nói rất đúng rằng: “Kẻ ghiền rượu di truyền cho con cái những xác thân làm mồi cho bịnh tật, nhưng nó không cắt nghĩa tại sao mấy đứa nhỏ bất hạnh nầy lại lãnh cái di sản đau đớn nầy”.
Trái lại, luật Luân hồi khôi phục sự công bình cho Đức Thượng đế và quyền năng cho con người. Mỗi linh hồn, khi mới nhập vào xác thịt thì là một cái mầm không hiểu biết, không ý thức, không phân biện. Như đã cắt nghĩa ở trước đây, nhờ kinh nghiệm êm đềm hay đau khổ, con người mới thâu thập những vật liệu để tạo ra những quyền năng trí thức và đạo đức. Thế nên, tánh tình của con người khi mới sanh ra là công nghiệp riêng của nó và đánh dấu trình độ nó đã trải qua trong kiếp tấn hóa lâu dài của nó. Tâm tánh tốt, tài năng lớn, bản tánh cao thượng, là chiến phẩm của những trận tranh đấu gây go; ấy là tiền công của một việc làm mệt nhọc và nặng nề. Trái lại, những tánh tình xấu xa, hèn hạ, chứng tỏ một trình độ tấn hóa còn thấp, một sự phát triển yếu ớt của mầm tinh thần.
Người dã man ngày nay sẽ là vị Thánh nhơn trong tương lai, tất cả đều đi chung một con đường, tất cả phải đến mức “Con người toàn thiện”. Sự đau khổ theo sau sự lầm lạc, nhưng luôn luôn có thể trị lành được. Sức mạnh phát triển nhờ sự tranh đấu. Sau mỗi lần ta gieo giống, ta đều gặt hái cái kết quả không thể tránh được; hạnh phúc căn cứ trong việc lành, còn đau khổ căn cứ trong việc ác.
Đứa bé sơ sinh thác, sau khi lọt lòng một ít lâu, là trả một mối nợ của nó đã vay trong quá khứ mà chưa thanh toán. Nó sẽ đầu thai lại rất mau đặng thâu thập những kinh nghiệm cần thiết cho sự tấn hóa của nó. Nó bị trễ trong một thời gian ngắn, nhưng nó đã dứt nợ.
Những công việc xã hội, mặc dầu đặt để con người vào bực thấp thỏi trong cuộc tranh đấu đặng sống có thể dẫn con người đi đến sự hy sinh tánh mạng; như vậy là tạo cho nó một tánh tình cao thượng trong những kiếp lai sinh và un đúc cho nó thành một kẻ phụng sự quốc gia.
Thiên tài của một người nào là kết quả của nhiều kiếp cố gắng của anh, dầu anh tuyệt tự đi nữa anh cũng phụng sự được trong những kiếp tương lai, bởi vì mỗi lần anh tái sanh lại cõi trần là mỗi lần anh được phát triển hơn.
Một linh hồn nào đầu thai vào một ác thân bị bịnh rượu chè say sưa của cha nó đầu độc là tại linh hồn đó phải học một bài học đau khổ để hướng dẫn kiếp sống nầy đây đúng với những nguyên tắc tốt đẹp hơn những nguyên tắc mà nó đã theo trong quá khứ.
Thế nên, trong mỗi trường hợp, quá khứ của một người nào đều giải thích kiếp hiện tại của người ấy, và ngày nào con người biết được những luật tấn hóa và tuân theo chúng nó thì ngày đó con người sẽ chắc chắn có thể tạo được kiếp số vị lai của mình và đúc nắn sự phát triển của mình theo những khuôn khổ tốt đẹp vô ngần cho tới khi nào trở nên một vị trọn sáng, trọn lành.
TẠI SAO CHÚNG TA QUÊN NHỮNG TIỀN KIẾP
Khi người ta nói đến Luân hồi, câu hỏi ta thường nghe là: “Nếu ta đã sanh ra ở cõi trần kiếp trước, tại sao tôi không còn nhớ chi cả ?” Một sự xem xét sơ qua những việc xảy ra cũng đủ trả lời cho câu hỏi đó.
Trước hết ta để ý rằng trong kiếp nầy đây, những điều ta đã quên vẫn nhiều hơn những điều ta còn nhớ. Nhiều người không thể nhớ mình đã có tập đọc, nhưng việc họ biết đọc chứng minh rằng họ đã có tập đọc. Những việc xảy ra hồi còn bé thơ đã xóa mất trong ký ức của ta, nhưng chúng nó còn để lại những dấu vết trong tánh tình chúng ta. Người ta quên rằng mình đã té lúc ấu thơ, nhưng không tránh khỏi tật nguyền, mặc dầu chúng ta vẫn dùng một xác thân nầy trong khi đã xảy ra những biến cố mà bây giờ ta đã quên đi.
Những biến cố nầy không hoàn toàn mất hẳn đối với ta. Nếu một người kia bị thôi miên, thiếp đi, va sẽ thuật lại những điều va đã làm hồi nhỏ, người ta thấy rằng những điều ấy bị chôn lấp trong ký ức chớ không phải tiêu mất. Người ta đã gặp nhiều trường hợp, những người sốt rét kịch liệt, trong cơn mê sảng nói một thứ tiếng mà họ biết hồi còn nhỏ, nhưng lúc lớn lại quên đi. Một phần lớn tiềm thức của chúng ta gồm những kinh nghiệm ẩn tàng như thế đó; ấy là những hồi ức bị lãng quên, tuy vậy cũng có thể phục hồi được. Nếu những điều kinh nghiệm ở trong xác thân nầy là đúng thì những điều kinh nghiệm ở trong những xác thân trước đã chết mất và đã tan rã không biết bao nhiêu thế kỷ rồi, lại càng đúng hơn nữa. Xác thân và trí óc của ta bây giờ không dự vào một phần nào trong biến cố xa xăm ấy vậy thì làm sao ký ức dùng chúng nó làm trung gian đặng phát hiện ra được ?
Thể xác trường tồn bất diệt theo chúng ta luôn luôn trong chu kỳ luân hồi, là ba Thể thiêng liêng Tiên thể, Kim thân và Thượng trí.
Những thể thấp đã rã và trở về nguyên chất trước khi chúng ta đi đầu thai.
Chất khí mới làm cái trí, cái vía, và xác thân, ba thể mới của ta kiếp nầy, thọ lãnh của chơn linh không phải những kinh nghiệm của quá khứ mà là những tư chất, những khuynh hướng, những năng lực, tức là những kinh nghiệm biến chất ra. Ý thức ta, sự ứng đáp tự nhiên của chúng ta, đối với những sự khêu gợi cảm tình và trí thức, việc chúng ta công nhận sức mạnh của một biện chứng hợp lý sự tán đồng những nguyên tắc căn bản về sự phải và sự quấy, điều lành và điều dữ; đó là dấu vềt của những sự kinh nghiệm mấy kiếp trước.
Người nào thuộc về hạng trí thức thấp kém không thể bình phẩm được một biện pháp hợp lẽ về toán học. Người mà kém về phần đạo đức thì không thể nào thấy được sức mạnh vô cùng của một lý tưởng cao siêu.
Có người thấu đáo và áp dụng lẹ làng một triết học hay một khoa học; người khác lại có một nghệ thuật mà không học trước, như thế là ký ức phát triển năng lực của nó mặc dầu công việc tập sự kiếp trước đã bị lãng quên.
Platon nói rằng : “Đó là sự sực nhớ lại”.
Nếu chúng ta cảm thấy thân mật với một người lạ, khi chúng ta mới gặp nhau lần đầu tiên, thì ký ức ở đó, Linh hồn biết rằng vốn là bạn thân của mình kiếp trước. Khi chúng ta tránh xa một người lạ, vì thấy va thì ta dội ngược lại, ký ức cũng ở đó, Linh hồn biết rằng anh đó là kẻ thù nghịch ngày xưa.
Những sự quen thuộc nầy và sự báo trước nầy vốn do tâm linh mà ra, mà tâm linh vốn là ta vậy. Chúng ta nhớ lại, mặc dầu vì cái óc làm việc, ta không thể ghi ký ức ta vào đó được. Trí và óc kiếp nầy đều mới, Linh hồn cung cấp cho cái trí những kết quả của quá khứ chớ không phải ký ức của những biến cố đó. Cũng như một nhà buôn bán, cuối năm khóa sổ và khi bắt đầu vô sổ mới, đâu có ghi tất cả những điều mục trong sổ cũ, mà chỉ ghi những kết số các khoản; cũng thế đó, Linh hồn chỉ ghi vô óc mới những sự xét đoán của nó về những kinh nghiệm của những đời sống đã qua, và luôn những kết luận cùng những quyết định của nó. Ấy là số dự trữ truyền lại cho kiếp mới, cũng gọi là động sản trí thức cho cái nhà mới; dĩ nhiên đó là một ký ức thực sự.
Ở nơi kẻ đã tấn hóa thì những tài sản nầy thật phong phú và khác nhau, và nếu người ta so sánh chúng nó với những sở hữu tương xứng của kẻ dã man thì giá trị của một ký ức lâu đời thấy rõ ràng. Không có cái óc nào chứa đựng được ký ức những sự biến cố của nhiều kiếp, trái lại, khi chúng nó cụ thể hóa thành những sự phán đoán đạo đức và trí thức rồi thì có thể dùng chúng nó được. Cả trăm tội sát nhơn đều quyết định: “Tôi không bao giờ nên giết ai cả”. Sự nhớ lại mỗi tội sát nhơn là một gánh nặng vô ích, nhưng mà sự xét đoán rút ra ở những kết quả của chúng nó, (nghĩa là, cái quan niệm tự nhiên rằng: đời sống con người là thiêng liêng) làm ra ký ức của sự sát nhơn nầy ở nơi con người văn minh.
Nhưng mà có khi người ta nhận thấy ký ức của những biến cố kiếp trước; mấy đứa trẻ thấy thoáng qua ở chỗ nầy, chỗ kia, những việc kiếp trước của nó nhờ vài sự biến cố hiện tại nhắc nhở. Đây là một trẻ nhỏ nước Anh, khi nó thấy những hình tượng lần thứ nhứt thì nó bỗng nhớ lại kiếp trước nó là một nhà điêu khắc. Kìa một trẻ Ấn độ lại biết một cái rạch mà nơi đó nó bị chết chìm, lúc nó còn nhỏ, hồi kiếp trước và nó còn biết người mẹ kiếp trước của nó nữa. Người ta đã ghi chép rất nhiều trường hợp nhớ chuyện kiếp trước như vậy.
Vả lại ta có thể nhớ lại chuyện kiếp trước, nhưng phải cần sự cố gắng liên tục sự tham thiền lâu ngày nhờ đó trí tuệ lúc trước hiếu động và luôn luôn cố ý muốn thoát ra ngoài nay bị kiểm soát và trở nên yên tịnh để hiểu biết được Chơn linh hòa hợp với nó và nhờ nó cho biết ký ức kiếp trước chỉ khi nào ta nghe được tiếng nói còn yếu ớt của Chơn linh thì chuyện kiếp trước mới trải ra trước mắt ta, bởi vì chỉ Chơn linh mới nhớ lại được và phóng ra những tia sáng của ký ức đã soi sáng sự tối tăm của bản tánh thấp thỏi và thường thay đổi mà tạm thời nó bị kết chặt vô đó.
Trong những điều kiện như thế thì có thể nhớ lại được nhờ những dây liên lạc quá khứ, nhận biết các bạn thiết thuở xưa, diễn lại những tấn tuồng kiếp trước trong khi thật hành kinh nghiệm về sự trường tồn bất diệt nầy thì có một sức mạnh và một sự yên tĩnh không thể hình dung được từ trong tâm phát sanh ra. Những sự buồn phiền hiện tại trở nên nhẹ nhàng, khi người ta thấy mặt thiệt của nó trong khuôn khổ những biến cố tầm thường và nhứt thời đối với một đời sống vô cùng, vô tận. Những lạc thú bây giờ mất hết màu sắc sáng lạn, khi người ta hiểu rằng: Chúng nó chỉ là những sự vui vẻ của quá khứ lập lại mà thôi. Sự buồn và sự vui đều được thừa nhận ngang hàng như nhau với tư cách là những kinh nghiệm hữu ích để làm cho tâm và trí được phong phú và góp sức vào sự phát triển đời sống.
Khi sự vui sướng và sự đau khổ được thấy với ánh sáng trường cửu (chỉ chừng đó mà thôi chớ không phải trước) thì có thể đương đầu với những kỷ niệm cấp bách kiếp trước mà không sợ nguy hiểm khi những kỷ niệm nầy trấn tĩnh những cảm xúc hiện thời và những điều mà có thể làm cho ta tan nát sẽ thành một chỗ nương dựa và một sự an ủy. Ông Goethe rất vui thích khi ông nghĩ rằng lúc ông đầu thai lại cõi trần ông sẽ quên hết những chuyện kiếp trước của ông; những người kém trí lực có thể vừa lòng về sự khôn ngoan của mình, trong mỗi kiếp sống mới trên con đường thích hợp với mình, sự khôn ngoan nầy nhờ những kết quả của những việc xảy ra ở kiếp trước, bồi bổ thêm chớ không phải bị tràn ngập những biến cố kiếp trước.
SỰ BÍ MẬT CỦA LÒNG THƯƠNG VÀ GHÉT
Đối với phần đông chúng ta thì cõi đời hiện tại đầy những sự rối ren và những điều đáng hiềm nghi; những sự rối ren đó chúng ta không thể gỡ mối được, và những điều hiềm nghi đó chúng ta không tài nào giải nổi. - Tại sao thiên hạ sinh ra lại khác nhau rất xa về trí và đức ? - Tại sao đứa trẻ nầy có bộ óc tỏ ra đại trí tuệ và đại hạnh cao siêu, còn đứa khác lại có bộ óc chứng tỏ nó sẽ là kẻ ngu độn hoặc là kẻ tội phạm? - Tại sao đứa trẻ nầy có cha mẹ tử tế và thân yêu, và những hoàn cảnh thuận tiện trong khi đứa kia lại sầu khổ vì bị cha mẹ vô hạnh ghét bỏ nó, và nuôi dưỡng nơi chỗ hết sức đê tiện ? - Tại sao đứa kia được sự may mắn và đứa nọ lại bị rủi ro ? – Tại sao kẻ nầy chết già, người nọ chết trẻ ? - Vì sao một người bị ngăn trở bởi một việc đột ngột, nên không đi một chuyến tàu để tránh khỏi nạn tàu chìm, hoặc khỏi bị một nạn xe lửa trật đường rầy, còn cả trăm người khác bị chết không ai cứu - tại sao ta lại yêu một người khi ta mới gặp, còn người kia khi ta vừa thấy thì ta đã mất vui ? - Những câu hỏi ấy rất nhiều và vẫn chưa ai trả lời. Nhưng cũng chẳng có gì khó, bởi vì những việc mà bề ngoài xem qua dường như bất công, những sự biến cố mà bề ngoài xem như là thình lình, ngẫu nhiên, chẳng qua là kết quả sự hành động của vài luật căn bản tự nhiên và đơn giản. Sự hiểu biết những luật huyền bí nầy làm cho đời sống minh bạch, phục hồi lòng tín nhiệm của ta trong trật tự thiên nhiên và truyền cho ta sức mạnh và can đảm để chống chỏi với sự thăng trầm của vận mạng. Những cuộc thử thách xảy đến cho ta mà ta “chẳng rõ là từ đâu đến” thì thấy rất khổ tâm, còn nếu do những nguyên nhân mà ta hiểu biết được thì nhờ đó ta có thể chế ngự nó và ta có thể bền lòng chịu đựng và nhẫn nại.
Nguyên tắc thứ nhứt mà ta cần biết rõ ràng, trước khi bắt đầu áp dụng nó vào sự giải quyết những vấn đề của đời sống là luật Luân hồi. Con người vốn là Chơn linh, là một cá nhơn sống và tự hiểu mình; nó là sự sống có ý thức ở trong một cái thân bằng vật chất rất tinh vi. Sự sống không thể hành động được nếu chẳng có một cái xác thân về loại nào đó, nghĩa là thứ hình dạng bằng vật chất, tinh tế, tạo cho nó một sự sống riêng biệt, chia rẽ trong võ trụ nầy, bởi vậy chúng ta thường nói những xác thể cũng như những “phương tiện vận chuyển” để chở chuyên sự sống và cho nó một cá thể. Chơn linh này đầu thai xuống cõi trần phải đi ngang qua cửa sanh sản mang một cái xác thịt, cũng chẳng khác chi người mặc thêm một cái áo choàng và đội nón để đi ra ngoài, cách xa gia đình; nhưng cái xác thịt không phải chính là con người, cũng như cái áo choàng và cái nón không phải là cái xác đang mặc đồ đó. Cũng như một người bỏ những quần áo rách và mặc y phục mới, Chơn linh bỏ một cái xác hư hoại và lấy một cái xác mới để dùng. (Bhagavad Gita). Khi xác thịt đã mãn kỳ, con người đi qua cửa tử, bỏ y phục trần gian và bước vào “thế giới khác”. Trong thời gian dài để nghỉ ngơi và tu bổ thì những kinh nghiệm kiếp trước được đồng hóa, làm tăng thêm quyền năng cho con người trở lại cõi trần một lần nữa, nhờ cha mẹ sanh cho xác thịt khác hạp với tài năng đã tiến lên. Lúc mà các Chơn linh phải đầu thai làm người ở cõi trần gian đã mấy triệu năm rồi, các ngài chỉ là những cái mầm non, những hột giống chẳng thông điều lành hoặc điều dữ; nhưng có không biết bao nhiêu khả năng để phát triển, bởi vì các ngài là con của Đức Thượng Đế, nhưng các ngài không có những quyền năng nào thật sự ngoại trừ sự rung động yếu ớt để ứng đáp lại những sự kích thích của ngoại giới. Tất cả những quyền năng còn tiềm tàng phải được phát hiện ra một cách tích cực nhờ những sự kinh nghiệm trải qua ở thế gian. Nhờ sự khoái lạc và sự cực nhọc, nhờ sự vui vẻ và điều đau khổ, nhờ sự thành công và sự thất bại, nhờ sự đầy đủ và điều thiếu thốn, nhờ sự chọn lựa liên tiếp điều phải và điều quấy, Chơn linh học được nhiều Luật không nên vi phạm và phát triển chậm chạp, từ cái nầy đến cái kia, những năng lực trong đời sống về trí và đức. Sau mỗi thời kỳ ngắn ngủi lặn hụp trong bể trần ai, thời kỳ mà chúng ta thường gọi là “một kiếp”, Chơn linh trở về cõi vô hình mang theo những kinh nghiệm đã thâu thập; cũng như một người thợ lặn khi trồi lên khỏi mặt biển mang về những hột ngọc mà va đã tìm được nơi những vùng hàu trai. Nơi cõi vô hình nầy, nó biến đổi tất cả những tài liệu về đức và trí đã gom góp được lúc còn sanh tiền, thành ra những quyền năng về đạo đức và trí thức, như đã trình bày ở đoạn trước, biến đổi những nguyện vọng thành những năng lực để thi hành, biến đổi những kết quả của sự cố gắng bị thất bại thành những sức mạnh cho sự thành công mai sau, thay đổi những bài học sai lầm thành những tánh cẩn thận, khôn ngoan và lo xa, đổi những sự đau khổ đã qua thành ra sự nhẫn nại. đổi những sự sai lầm thành ra sự ghê tởm những điều quấy, sau cùng thay đổi tất cả các điều kinh nghiệm thành ra sự khôn ngoan. Cũng như ông Edwart Carpenter đã nói: “Tất cả những điều cực nhọc mà tôi trải qua trong một xác thân sẽ thành những quyền năng để tôi sử dụng trong xác mới sau nầy”.
Khi tất cả những điều thâu thập đã được đồng hóa rồi thì con người trở lại trần gian nữa. (Thời gian ở cõi Thiên đàng lâu hay mau tùy theo số tài liệu mà trí và đức thâu thập được). Con người sẽ được đưa đến chủng tộc nào, quốc gia nào và gia quyến nào phải tạo các xác thân mới cho nó (theo những điều kiện riêng, sau sẽ nói rõ), xác thân này được được gắn đúc tùy theo sự cần thiết để nó có thể dùng làm khí cụ thích đáng cho quyền năng của nó và cũng là giới hạn để chứng tỏ sự còn khuyết điểm của nó. Con người ở trong xác thân mới, rồi bỏ xác, trở về cõi vô hình, con người lại trải qua một vòng luân hồi như thế nữa, nhưng với một trình độ cao hơn kỳ trước. Công việc cứ thế mà lập lại luôn cả trăm kiếp, cho đến chừng nào các khả năng của con người trở thành những quyền lực hoạt động, cho đến khi con người học được lần lần, điều nầy rồi đến điều kia, tất cả các bài học của đời sống con người có thể dạy Chơn linh. Như thế ấy, Chơn linh phát triển từ lúc bé cho đến lúc trưởng thành đến tuổi già, thành ra một đời sống cá thể vô biên và sự ích lợi sẽ vô tận cho công việc thiêng liêng. Những Chơn linh nào đấu tranh và phát triển trong nhơn loại nầy, trở thành những người đỡ đầu cho nhơn loại sau. Theo thời gian, các vị ấy sẽ trở thành những Đấng Thiêng liêng hướng dẫn cho sự tấn hóa của thế giới sanh sau thế giới của họ. Chúng ta đã được che chở, giúp đỡ, dạy dỗ, nhờ những vị Thiêng liêng vốn là những người ở những thế giới sanh ra trước thế giới ta ở bây giờ và cũng nhờ những người tấn hóa tột bậc, hiện giờ thuộc về nhơn loại ở tại trái đất nầy. Chúng ta sẽ trả món nợ nầy bằng cách che chở, giúp đỡ và dạy dỗ các giống dân ở những thế giới mà hiện giờ còn ở trong giai đoạn đầu tiên đang chuẩn bị để thành những nơi cư trú của nhơn loại vị lai sau không biết bao nhiêu thế kỷ nữa.
Nếu chúng ta thấy chung quanh ta những kẻ dốt nát, ngu đần và thật hung bạo, các năng lực về trí và đức còn hẹp hòi thì ấy là những linh hồn còn trẻ hơn chúng ta, ấy là những đàn em của chúng ta; vậy thì ta nên tỏ lòng khoan hồng về các điều sai lầm của họ hơn là khắc nghiệt và ghét bỏ. Hồi mấy kiếp trước chúng ta cũng như họ ngày nay; ngày nay chúng ta thế nào thì ngày sau họ cũng như thế ấy. Họ và chúng ta cứ tấn tới và tấn tới luôn luôn, trải qua những thế kỷ vô tận.
Ấy là nguyên tắc căn bản thứ nhứt, ứng dụng vào các điều kiện hiện tại làm cho đời sống được minh bạch.
Ở đây, tôi sẽ chỉ giải một trong mấy câu hỏi ở trên với vài chi tiết: tại sao ta yêu người nầy khi ta mới gặp lần đầu và lại không ưa người kia. Nhưng người ta cũng có thể trả lời giống một cách ấy với tất cả các câu hỏi khác. Song le, nếu muốn trả lời đầy đủ, ta lại phải thấu rõ nguyên tắc đi đôi với luật Luân hồi, tức là luật Nhân quả (Loi de Karma ou Loi de Causalité).
Cái luật nầy có thể nói bằng một câu quen thuộc với tất cả: “Mỗi người, hễ gieo giống chi thì gặt giống nấy”.
Do đó ta hiểu rằng: con người tự tạo tánh nết cho mình, con người trở thành những cái gì mà họ tưởng nhớ hằng ngày; và do những kết quả việc làm với họ đối với những kẻ ở chung quanh, họ chuẩn bị những cơ hội cho kiếp tái sanh. Thí dụ, nếu tưởng tượng tôi cao thượng, tôi tự tạo lần lần một tánh tình cao thượng, nhưng nếu tôi suy tưởng điều thấp hèn, tất nhiên tôi sẽ tự tạo ra tánh nết xấu xa. Những Thánh kinh Ấn Độ có nói: “Con người do tư tưởng sanh ra; họ suy tưởng quyết liệt cái chi trong kiếp nầy thì kiếp sau họ sẽ thành cái đó”.
Khi tư tưởng thường thường cố định về một vấn đề nào thì nó khai một con đường, do theo đó mãnh lực tư tưởng tự động lưu hành. Cái thói quen tư tưởng nầy vẫn còn sống sau khi ta bỏ xác, nó thuộc quyền sở hữu của Chơn nhơn (Ego) và được chuyển di lại kiếp sau thành ra xu hướng và năng lực của tư tưởng. Bây giờ xin kể ra một thí dụ về hạng cao siêu nếu thường thường khảo cứu về những vấn đề trừu tượng thì kiếp sau, khi sanh ra sẽ có một quyền năng thật phát triển về việc tư tưởng trừu tượng, trái lại, nếu suy nghĩ vội vàng sơ suất nhảy từ vấn đề nầy qua vấn đề khác thì khi tái sanh sẽ có một tính nghịch ngợm hay liến xáo, lo lắng và không mực thước. Lòng tham lam ích kỷ, muốn chiếm đoạt của thiên hạ mặc dầu kiếp nầy chưa thành sự trộm cắp thực sự, kiếp khác sẽ thành ra kẻ trộm đạo. Sự oán ghét và ý muốn trả thù cũng như thế ấy, dầu ấp ủ kín đáo trong lòng, cũng là cái mầm tạo ra kẻ sát nhơn. Lòng thương yêu không cầu lợi tạo thành nhà bác ái và Thánh nhơn, và tư tưởng từ bi tạo ra bản tánh dịu dàng và nhân đức của người “bạn thiết của tất cả chúng sanh”.
Khi hiểu biết luật công bình bất di bất dịch nầy và cách trả lời phân minh của tạo vật về mỗi câu hỏi, thì con người có thể đào tạo tánh nết mình một cách đúng đắn theo khoa học, với một cách gan dạ và nhẫn nại con người hướng về khuôn mẫu cao quí của mình đương xây dựng, tuy có hơi chậm nhưng mà chắc chắn.
Hiệu quả các sự hành động của chúng ta đối với kẻ xung quanh của ta trong kiếp sau. Nếu chúng ta đã gây hạnh phúc cho những người chung quanh, ta sẽ được sanh vào một chỗ hết sức thuận tiện hoặc chúng ta được đưa đẩy vào cảnh ngộ ấy ở kiếp sau. Trái lại, gây sự khổ cho đời sẽ gặp cảnh nghịch ở kiếp sau. Chúng ta tạo ra những dây liên lạc với cảnh chung quanh ta do sự tiếp xúc của ta với họ. Vậy thì những sợi dây ấy, rèn bằng sự trao đổi những phương tiện tốt đẹp hoặc thấp hèn, để lấy những khoen vàng yêu đương hoặc là dây xích sắt oán ghét. Ấy là luật Nhân quả.
Một khi ý kiến bổ túc nầy đã ghi vào trí não một cách minh bạch rồi, chúng ta có thể trả lời câu hỏi của ta một cách dễ dàng hơn hết.
Những dây liên lạc giữa các Chơn nhơn (Egos) giữa các Linh hồn có cá tánh không thể xảy ra trước khi Chơn nhơn tách ra khỏi Thượng Đế, cũng như những giọt nước có thể tách ra khỏi đại hải. Trong giới kim thạch và giới thảo mộc, sự sống biểu lộ trong đá và cây chưa tấn hóa đến trình độ lập cá nhơn riêng.
Danh từ “Hồn khóm” (âme groupe) đã dùng để phát biểu ý tưởng của đời sống nầy đang tấn hóa với tư cách là nó nuôi nhiều cơ thể hữu hình đồng lọai. Như vậy, trọn một loại thảo mộc, thí dụ như loại hoa cỏ, hoa có hình tán (ombelliféres tán hình hoa) hay là loài hoa hồng (rosacées) thì đều nhờ có một hồn khóm nuôi sống mà thôi; (có thể gọi hồn khóm là giác hồn), hồn khóm nầy tấn hóa là nhờ các kinh nghiệm thâu nhập trải qua nhiều kiếp. Những sự kinh nghiệm của mỗi cây cỏ lưu hành trong “sự sống” đang điều khiển toàn thể loại cây ấy để giúp đỡ và thúc giục sự tấn hóa. Lần lượt những hình dạng trở nên thêm phức tạp thì Hồn khóm chia ra làm nhiều tiểu bộ và mỗi tiểu bộ lần lần tách riêng ra khỏi nhóm của mình. Hễ số tiểu bộ càng ngày càng tăng thì số hình dạng của mỗi tiểu bộ càng ngày càng giảm. Trong giới thú vật sự phân chia hồn khóm nầy vẫn tiếp tục; về loại thú có vú bậc cao thì mỗi hồn khóm có một số ít thú vật, bởi vì Tạo vật làm việc thiên về sự có cá tánh. Những kinh nghiệm thâu thập bởi mỗi sanh vật đều được chia đồng đều cho hồn khóm của nó, và thâm nhiễm mỗi con thú ở trong hồn khóm đó sanh ra; những kinh nghiệm nầy làm ra điều mà người ta gọi là bản năng mà chúng ta đã thấy ở mỗi sanh vật vừa mới sanh ra. Chính cái bản năng nầy khiến con gà con vừa mới nở ra biết chạy trốn dưới cánh gà mẹ để nhờ bảo vệ cho khỏi nguy hiểm hoặc khiến con hải ly (Castor) xây đắp đê của nó. Những kinh nghiệm súc tích của nòi giống nó được bảo tồn trong hồn khóm, và để dìu dắt mỗi phần tử của khóm nó. Khi giới thú vật đã đến trình độ cao hơn hết thì mỗi tiểu bộ chót của hồn khóm chỉ nuôi có một con thú mà thôi; đến lúc cuối cùng nó sẵn sàng tiếp đón “Sự sống Thiêng liêng” (La vie divine) hay là Chơn linh tuôn xuống cho nó. Đây là sự sanh hóa Linh hồn con người hay là Chơn nhơn và từ đó sự tấn hóa về trí thức của bản ngã khởi sự.
Từ lúc một sự sống riêng biệt linh động trong một thể xác thì sợi dây liên lạc có thể kết liên Nó với những sự sống độc lập khác, mỗi sự sống đều ở trong một thể xác khác nhau. Những Chơn nhơn ở trong xác thịt đều tiếp xúc với nhau, người nầy với người khác. Có thể sự hấp dẫn của xác thịt lôi cuốn vị Chơn nhơn nầy theo vị Chơn nhơn kia, vị nầy ở trong xác đàn ông, vị kia ở trong xác đàn bà.
Họ sống chung với nhau, có những quyền lợi chung và như vậy, những sợi dây liên lạc đã tạo ra; nếu người ta có thể nói thì họ gây ra oan trái với nhau, nợ nầy chẳng có tòa án Thiêng liêng nào hủy bỏ được. Sự chết làm mất xác người nầy, rồi xác người kia; cả hai đều đi qua cõi vô hình, những oan trái ở cõi trần phải trả ở cõi trần và kẻ kia lại phải gặp nhau ở thế gian nữa và nối lại cuộc liên lạc đã bị gián đoạn bởi sự chết. Các vị Đại đế cai quản luật Nhân quả dìu dắt cho hai người tái sanh đồng thời để khoảng thời gian sống ở cõi trần của họ được phù hợp một phần nào, về thời giờ cùng chỗ ở, và họ sẽ gặp nhau. Nếu oan trái ấy, là sự thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau thì hai người lại được hấp dẫn đến gần nhau; Chơn nhơn tự hiểu lẫn nhau là hai bạn thiết mặc dầu mỗi người đã mặc một lớp áo khác và họ quyến luyến nhau chớ không thấy xa lạ. Trái lại, nếu là oan trái vì sự thù hiềm và lầm lỗi nặng nề, họ lánh xa nhau với cảm giác bị dội ngược lại, mỗi người tự nhiên hiểu rằng: đó là một người thù cũ, do cái hố chứa những lỗi lầm đã gây ra thiệt hại cho hai bên. Chắc chắn mỗi đọc giả đều có những trường hợp như thế mà không nghi ngờ nguyên nhân sâu xa. Có thật vậy, những sự trìu mến và những sự tỵ hiềm thình lình thường bị ngưới ta gọi là “vô nguyên nhân” nhưng ở một cõi mà khắp nơi đều tùng theo một Luật, thì có thể nào, một công việc xảy ra lại chẳng có nguyên nhân được !
Nhưng chẳng phải do đó mà những linh hồn dính dấp với nhau thì cần phải nối dây liên lạc, mà sự chết đã chặt đứt, y như kiếp trước. Người chồng và người vợ ở kiếp nầy, có thể tái sanh chung trong một gia đình kiếp sau, làm anh trai hoặc em gái hoặc cha và con trai, hoặc cha và con gái hoặc ở các giai cấp khác trong họ. Hoặc có khi sanh ra là người dưng ở xa nhau, nhưng khi gặp nhau lần đầu tiên, lúc trẻ, hoặc lúc già tức thì có lòng trìu mến không thể ngăn cản được. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà ta đã trở nên thân mật với một người khi nảy còn là người xa lạ; còn người kia ở gần ta năm nầy qua năm kia, mà trong đáy lòng ta, thì ta với người là những kẻ không quen biết nhau, cách xa nhau như vạn dặm. Vậy do đâu có sự thân thuộc lạ lùng như vậy, nếu chẳng phải là sự hồi tưởng những tình thương kiếp trước của Chơn nhơn ? – Chúng ta há chẳng nói với người bạn thân thiết được vài tuần rằng: Dường như luôn luôn tôi biết rõ bạn lắm, còn nhiều người khác mà ta biết từ nhỏ lại đối với ta không khác nào những cuốn sách xếp lại, đọc không được.
Các Chơn nhơn tự biết lẫn nhau mặc dầu xác thịt lạ nhau và những bạn thiết lâu đời siết tay nhau để trọn tin nhau và hiểu ý nhau. – và điều ấy mặc dầu óc xác thịt chưa học tập thâu nhận những cảm giác của ký ức ở trong các thể tinh vi nhưng vì chúng nó quá tinh túy nên không thể sanh sản những sự rung động trong chất thô sơ của cái óc và khêu gợi những sự rung chuyển đồng tình với ý thức trong xác thịt.
Than ôi ! Có khi những dây oan trái, thù hận và ác hại đã gây ra, qui tụ những kẻ thù cũ về ở trong một gia đình để cùng chịu chung một kết quả tàn khốc trong các sự đau khổ của mỗi người đã làm. Những tấn thảm kịch đen tối trong gia đình có gốc rễ thâm sâu như thế trong kiếp trước và biết bao nhiêu điều ghê sợ đã do Hội Bảo trợ nhi đồng khám phá được; - như nỗi đau khổ của trẻ con bị mẹ ruột chúng nó hành hà khắc nghiệt, sự hung tợn tinh quái gieo sự đau đớn để vui mà thấy mấy kẻ bị hành hà quằn quại và thở hơi cuối cùng. Các điều ấy có thể hiểu được, khi ta biết rằng linh hồn trong cái xác trẻ này, hồi kiếp trước, đã có làm khổ sở người đương đánh đập nó bây giờ, nên kiếp này người ta làm khổ lại, và bây giờ những kinh nghiệm rùng rợn làm cho nó nếm mùi để biết rằng; theo những con đường quấy thì bị lao khổ đến bực nào.
Có người lại nảy sanh ra trong trí câu hỏi này: “Nếu điều này là thật đúng thì chúng ta có nên cứu trợ mấy trẻ nhỏ chăng ?” – Cần lắm chớ ! và không có gì phải nghi ngờ. Đó là bổn phận chúng ta phải giúp đỡ bớt khổ, bất kỳ chúng ta gặp nó ở đâu, chúng ta vui mừng mà thấy Luật Trời dùng chúng để làm những kẻ bố thí lòng từ bi.
Có người lại hỏi: Làm sao có thể chặt đứt được những dây oan trái của sự quấy ? Những khổ hình đã gia phạt đứa trẻ rồi sẽ còn đúc ra một sợi dây xích mới nữa chăng và những cha mẹ hung ác đó sau này sẽ là nạn nhân của đứa con bị áp bức thống khổ đó chăng ?
Đúng như lời Phật đã dạy vì Ngài hiểu rành luật Trời: “Không phải lấy oán trả oán mà oán đó dứt”. Nhưng mà Ngài truyền dạy bí quyết để giải thoát khi Ngài nói tiếp: “Tình yêu thương mới dứt được sự thù hận.” tức là lấy ân đáp oán thì cái oán mới dứt. Trong khi vị Chơn nhơn chịu đau khổ đặng trả nợ cũ mà đủ khôn ngoan, đủ can đảm, đủ cao thượng để nói lúc bị thống khổ về xác thịt hoặc tinh thần: “Tôi tha thứ” thì Chơn nhơn đã xóa bỏ món nợ mà nó có thể bắt buộc kẻ thù xưa phải trả và mối oán hờn đã tiêu tan đời đời trong ngọn lửa bác ái.
Những dây oan trái về tình yêu cứ mạnh thêm trong mỗi kiếp trần, trong khi đó hai người vẫn giữ tình huynh đệ; nhưng dây oan trái về tình yêu này càng thêm vững chắc lúc về cõi Thiên đàng; mỗi người phát triển điều lành của mình đã có mà không tiếp xúc với kẻ thù.
Khi Chơn nhơn thành công trong việc ghi vào óc xác thịt cái ký ức kiếp trước, chừng đó những kỷ niệm chung càng làm cho các Chơn nhơn gần nhau thêm nữa và mối liên quan gây ra một ý niệm an toàn và mạnh mẽ mà những nghĩa vụ trong một kiếp không thể nào tạo được. Mấy Chơn nhơn như thế vui lòng tin tưởng, mạnh mẽ và sâu xa vì nhờ sự kinh nghiện của mình mà biết rằng lòng thương yêu không hề bị tiêu diệt.
Ấy là điều giảng giải về những sự khắn khít và những sự tương quan chỏi ngược nhau theo ánh sáng của luật Luân hồi và Nhơn quả.
NHƠN QUẢ - LUẬT HÀNH ĐỘNG VÀ PHẢN ỨNG (Luật Cảm Ứng)
Danh từ Karma (Nhơn quả) chỉ định một cách đơn giản là Hành động; nhưng mà ý nghĩa tiếng này có một phạm vi rộng lớn và hơn nữa có nhiều nguyên nhân góp phần vào sự thực hành của một việc mà người thường không có thể tưởng tượng được.
Hành động nào cũng có một cái dĩ vãng đưa đẩy đến đó, hành động nào cũng sanh ra một cái tương lai. Một điều hành động bao hàm một cái ý muốn đã khêu gợi nó, một tư tưởng đã tạo ra cho nó một hình dạng, ngoài ra sự hoạt động hữu hình mà người ta gọi tên là “hành vi” (acte) thường thường là hữu hạn. Mỗi hành vi là một cái khoen của sợi lòi tói vô cùng vô tận của Nhân và Quả. Mỗi quả trở thành một nhân và mỗi nhân ngày nay là một quả hồi trước; mỗi khoen của sợi lòi tói vô cùng vô tận này đã rèn bằng ba yếu tố: ý muốn, tư tưởng và hoạt động. Một ý muốn kích thích một tư tưởng; một tư tưởng lại cụ thể hóa thành hành động. Có khi một tư tưởng dưới hình thể của một kỷ niệm lại đánh thức một ý muốn, và ý muốn ấy phát hiện ra thành hành vi. Nhưng mà luôn luôn người ta gặp ba nguyên động lực: hai cái vô hình thuộc về ý thức, còn cái kia hữu hình thuộc về thể xác; muốn nói cho thiệt đúng thì hành vi cũng có ở trong ý thức, như hình bóng, trước khi biểu lộ dưới hình thức hành vi cụ thể. Ba hình thức [7] của ý thức (trois modes de consciences) là ý muốn hay là sự Quyết ý, Tư tưởng và Hoạt động. Sự liên quan này, giữa ý muốn, tư tưởng và hoạt động trong sự hành động (l’action) và sự liên quan vô tận của những sự hành động như nhân và quả (causes et effets), tất cả đều gom vào trong danh từ Cạt ma (karma). Đó là sự nối tiếp mà người nào cũng biết, tất nhiên đó là một “Luật”. Vì thế nên Cạt ma (karma) được gọi là “Luật Nhơn quả”. Định thức của nó theo khoa học là: Hành động và Phản ứng đều bằng nhau và trái nghịch nhau.
Câu trong Thánh kinh, được nhiều người biết là “Người nào cũng sẽ gặt được, tùy theo cái gì nó đã gieo”. Nó phô diễn lại cái luật này dưới một hình thức khác, cũng có khi, người ta gọi là luật Quân bình, vì chưng nơi nào sự quân bình bị đổ vỡ thì có một động lực thiên nhiên tu bổ sự quân bình lại.
Vậy Cạt ma là sự biểu thị của Tạo hóa dưới trạng thái là “Luật”. Sự bất khả xâm phạm của trật tự thiên nhiên, sự đứng đắn của luật thiên nhiên, sự chân thành tuyệt đối của Tạo vật, là những nền tảng kiên cố của vũ trụ. Nếu không có chúng nó thì chẳng thế nào có khoa học, chẳng có sự gì chắc chắn, không có bài học dĩ vãng, không có những điều tiên kiến về tương lai, như thế sự kinh nghiệm của nhơn loại trở thành vô dụng và sự sống sẽ là một sự hỗn độn vô lý.
Người đã gieo cái gì thì bây giờ gặt cái nấy. Ấy là Cạt ma, là Nhân quả. Nếu ai muốn cần dùng lúa, va phải gieo lúa; không thể nào lo trồng nho mà lại mong được bông hường, trồng những cây gai mà muốn gặt lúa mì. Trong giới đạo đức và trí thức thì luật cũng bất di bất dịch, nếu gieo trồng sự biếng nhác thì không thể nào gặt được học thức; vun trồng điều ích kỷ thì không thể gặt được tình thân ái; vun trồng sự sợ sệt thì làm sao có được tánh can đảm.
Giáo lý tốt đẹp này khiến ta phải nghiên cứu những nguyên nhân mà ta gây ra do những ý muốn, những tư tưởng và những hành động của ta trong mỗi lúc, và am tường những kết quả không tránh được; giáo lý ấy khiến con người từ bỏ tất cả những ý nghĩ sai lầm về sự “Xá tội”, “đền tội thế cho ta”, sự khoan hồng của Thượng Đế và những thứ ma túy khác mà sự dị đoan đã hiến cho kẻ tội lỗi. Đối với những người tìm thế trấn tỉnh sự lo sợ bằng những phương thuốc tinh thần như thế, giáo lý Cạt ma hô to cũng như một tiếng kèn kêu vang: “Chớ nên lầm tưởng hão huyền, không ai lừa dối Thượng Đế được, người gieo giống chi thì người sẽ gặt giống đó”.
Đó là về phương diện cảnh cáo của định luật, nhưng đây là về phương diện khích lệ, nếu định luật thống trị cõi trí và đức, thì chúng ta có thể xây dựng tánh tình của ta; tư tưởng sanh ra hạnh kiểm, và hạnh kiểm làm thành tánh nết.
“Con người tưởng thế nào thì va là thế ấy”. “Con người do tư tưởng tạo ra” và “Con người trở thành ra cái gì mà va bền lòng tưởng nhớ”.
Nếu chúng ta tham thiền về tánh can đảm là chúng ta thêu dệt sự can đảm trong tánh nết của ta. Các tánh khác cũng thế, như tánh thanh khiết, bền lòng, tận tâm, tự kiểm soát v. v. . . Nếu một tư tưởng được duy trì bền bỉ, nó tạo ra một cái thói quen xác định của cái trí và cái thói quen này biểu lộ thành tư cách trong tánh nết. Chúng ta có thể xây lập tánh nết của ta một cách chắc chắn khi ta thi hành đúng theo định luật, cũng như người thợ hồ có thể xây một tấm vách tường. Tánh nết là một nguyên động lực mạnh mẽ nhứt trong định mạng, và trong khi ta tạo được một tánh tốt, chúng ta chắc chắn có một định mạng hữu ích và phụng sự nhơn sanh. Chúng ta đau khổ vì định luật thì cũng do định luật mà chúng ta chiến thắng.
Không định luật thì chúng ta bị trôi giạt theo trào lưu cũng như chiếc thuyền không lái. Khi biết được định luật rồi thì ta cầm vững “tay lái”, nhờ đó ta điều khiển được chiếc tàu của ta đi đến chỗ ta muốn.
BA TAO CỦA SỢI DÂY ĐỊNH MẠNG
Theo người Hi Lạp thì có ba vị Thần Định Mạng quây sợi dây kiếp số. Đối với người đã biết Đạo thì có ba vị Thần Định Mạng, mỗi vị quây một tao, và ba tao xe chung lại làm một sợi dây kiếp số chắc chắn, sợi dây này cột hoặc mở kiếp sống con người tại cõi trần. Ba định mạng này chẳng phải là những người đàn bà trong câu chuyện thần tiên Hi Lạp, ấy là ba Quyền lực của ý thức của con người – Quyền lực ý chí, Quyền lực tư tưởng, Quyền lực hành động. Đó là ba mối mệnh hệ dệt thành định mạng của con người, và chúng nó gốc ở trong mình chớ không phải ở ngoài. Định mạng của ta chính là công việc của ta; chẳng phải do ngoại giới độc đoán bắt buộc ta phải tuân theo. Chính Quyền lực riêng của ta vì bị vô minh che lấp nên xe và cuốn sợi dây lại để quấn chặt lấy mình, còn nếu quyền lực riêng của ta được điều khiển với sự hiểu biết thì nó tháo mở cho tứ chi ta được tự do thoát khỏi các chướng ngại của ta tạo ra, và đem ra khỏi vòng nô lệ.
Trong ba Quyền lực này thì “Quyền lực tư tưởng” là quan trọng hơn cả. Theo cội rễ Phạn ngữ thì tiếng NGƯỜI, nghĩa là “người tư tưởng”. Sợi chỉ tư tưởng dệt thành những đặc tánh về trí và đức, và toàn thể những đặc tánh này hiệp lại thành tánh nết. Chúng ta đọc trong Thánh kinh có câu: “Người ta tưởng cái gì thì người ta là cái đó”. Ấy là định luật chung. Đặc biệt hơn nữa là câu này: “Ai ngó một người đàn bà và sanh lòng tưởng muốn thì đã phạm tội tà dâm trong lòng rồi”. – Hoặc có câu: “Người nào ghét anh em nó thì chính nó là kẻ sát nhơn”. Lý lẽ cao thâm là: khi trí bị điều khiển bởi một tư tưởng rõ ràng và cố định vào đó thì có một sự rung động xác định trong vật chất sanh ra và nếu càng tái diễn thì nó càng thành ra tự động và trở thành thói quen. Xác thịt theo dõi tinh thần và uốn mình theo các sự biến đổi; nếu chúng ta gom tư tưởng lại thì mắt chăm chú về một chỗ, các bắp thịt tự căng thẳng ra; nếu cố gắng để nhớ một điều gì thì nó làm cho ta phải nhíu chơn mày; cặp mắt vơ vẫn chỗ này chỗ kia, khi chúng ta rán sức để phục hồi một cảm giác đã quên mất; sự lo âu, sự giận dữ, lòng thương yêu, sự không kiên nhẫn, đều có sự chuyển động bắp thịt, riêng theo mỗi tánh; có ít người bị ám ảnh, muốn nhảy từ trên cao xuống là do khuynh hướng của xác thể thực hiện tư tưởng té ngã. Bởi vậy cho nên bước đầu vào việc quả quyết sáng tạo tánh hạnh cần phải cố ý chọn lựa những điều ta muốn suy nghĩ, và kế đó, phải khăng khăng tưởng nhớ tánh hạnh đã chọn. Lâu lắm mới thấy có mòi muốn biểu lộ tánh hạnh đó ra, rồi lần lên, sự tập rèn tánh hạnh đó thành ra thói quen. Như thế, ta sẽ dệt được sợi chỉ canh của “Tư tưởng” trong số mạng của ta và một ngày kia ta sẽ thấy có một đặc tánh, hướng về mục đích cao thượng và hữu ích. Thế là, ta tư tưởng thế nào ta sẽ thành như thế ấy.
“Tư tưởng làm ra tánh nết”.
Quyền lực Ý chí thiết lập vận mạng thứ nhì và xe một tao dây to của sợi dây số mạng. Ý chí phát hiện như dục vọng: “dục vọng chiếm hữu vốn là sự thương yêu, sự hấp dẫn dưới nhiều trạng thái; dục vọng xua đuổi vốn là sự thù hận, sự xua đuổi nó tách ra khỏi ta những cái gì có ác cảm với ta”. Cũng chắc chắn như đá nam châm hít dính và giữ sắt và thép, dục vọng của ta rút lại ta những cái gì mà ta muốn chiếm và giữ để làm vật sở hữu. Hăng hái muốn làm giàu và muốn được thành công thì sẽ được toại nguyện. Điều nào ta ham muốn một cách sốt sắng và bền bỉ thì nó sẽ đến với ta chẳng sớm thì muộn. Một tưởng tượng, một ý ngông cuồng thoảng qua, một ý muốn không nhứt định thì chỉ có sức thu hút yếu ớt; trái lại, nếu người nào có một ý chí mạnh mẽ thì thế nào rốt lại cũng chiếm được điều của va thật lòng muốn. Vậy thì “tao chỉ” dục vọng này đem đến cho ta hoặc là vật ta muốn hoặc là có cơ hội tốt để chiếm đoạt vật ấy sau này. Ý chí tạo thành những cơ hội và thâu hút những vật mình muốn.
Sợi dây thứ ba là Quyền lực hành động. Ấy là sợi dây đem nhiều hạnh phúc hoặc đem nhiều hoạn họa bên ngoài vào số mạng ta. Tùy theo cách thế ta đối đải với những kẻ chung quanh ta, họ sẽ đối đải lại với ta hoặc tốt hoặc xấu. Kẻ nào ban rải điều hạnh phúc chung quanh mình thì cảm thấy điều hạnh phúc tràn đến cho mình, còn người làm khổ cho kẻ khác sẽ cảm thấy sự phản ứng đau khổ của va đã gây trở lại y; cái nụ cười tạo ra nụ cười, khí sắc rầu rĩ sanh ra khí sắc rầu rĩ. Định luật về sự hành động có thể phát biểu như vầy: “Mỗi hành động của ta đối với nhơn loại gây ra cho ta một sự phản ứng in hệt như nó vậy”.
Ấy là ba “tao chỉ” hợp thành sợi dây số mạng, nó tạo ra tánh nết, cơ hội và hoàn cảnh. Sự chết chẳng phải chặt đứt được chúng nó một cách đột ngột; chúng nó vẫn kéo dài từ kiếp này qua kiếp khác nữa. “Tư tưởng” tạo ra tánh nết mà ta mang theo khi trở lại trần gian. Ý chí đưa đến hoặc xua đuổi những cơ hội tốt hay xấu làm cho ta gặp may hay rủi. “Hành động” hấp dẫn đến cho ta những điều kiện vật chất thuận tiện hay bất lợi. Con người là kẻ tạo ra tương lai của mình, nó là người thợ nắn đúc kiếp số của nó, nó chính là vận mạng của nó.
QUYỀN LỢI TƯ TƯỞNG VÀ CÔNG DỤNG CỦA NÓ
Một trong những đặc tính nhứt ở thời đại hiện tại là một sự nhận biết ở mọi nơi cái quyền năng tư tưởng và sự tin rằng: con người có thể rèn đúc được tánh nết của mình và tạo ra định mạng của mình, bởi sự sử dụng cái quyền lực này nó làm ra con người.
Về điểm này, những ý niệm hiện kim lại xác nhận những giáo lý trong các tôn giáo thuở xưa.
Vậy thì rất hữu ích cho chúng ta nếu chúng ta biết cách dùng quyền lực tư tưởng với tất cả khả năng để đi đến kết quả tối đa. Điều này chỉ có thể thực hiện được là nhờ sự tham thiền và một trong những phương pháp đơn giản nhứt mà người nào cũng có thể thí nghiệm để biết giá trị, ấy là:
“Hãy kiểm soát tánh nết riêng của ta, trích ra ít điều sai lầm; rồi ta tìm đức tánh tốt đối lập với thói xấu của ta. Thí dụ, ta lấy làm khổ về tánh dễ giận, vậy ta phải chọn đức tính đối lập lại là tánh nhẫn nại. Khi đó luôn luôn mỗi buổi sáng, trước khi giao thiệp với người khác, ta ngồi lại trong bốn năm phút, và suy nghĩ về sự nhẫn nại, giá trị của nó, sự đẹp đẽ của nó, thực hiện nó bằng cách tưởng tượng bị người khiêu khích mà vẫn bình tĩnh, ta phải dừng lại ở phương diện này ngày nay, ở phương diện kia ngày mai, và phải kềm giữ cái trí ở tại đức tánh đã chọn lựa ấy; nếu tư tưởng lạc ra xa thì ta phải đem nó trở lại vấn đề đang suy nghĩ đó. Ta phải tưởng đến chỗ ta được hoàn toàn nhẫn nại, như một kiểu mẫu kiên nhẫn và kết thúc bằng câu ước nguyện :
“Sự nhẫn nại này thuộc vào bản tánh của tôi, tôi quyết thấy tôi được nhẫn nại, và biểu lộ tánh nhẫn nại ngày nay đây”
Thế nào trong mấy ngày đầu ta chưa thấy thay đổi rõ rệt, ta cũng còn cảm thấy và tỏ ra giận hờn. Tuy vậy, ta hãy cố tâm tiếp tục mỗi buổi sáng. Khi ta thốt một lời giận hờn, tự nhiên có một tư tưởng hiện đến như chớp nhoáng: “Đáng lẽ tôi phải bền chí”. Hãy rán tiếp tục đừng nản lòng. Sự xúi dục giận hờn ngày càng trở nên yếu ớt cho đến một ngày kia ta không còn thấy nó nữa, và sự nhẫn nại trở thành thái độ tự nhiên của ta đối với các sự trái nghịch.
Đó là một điều kinh nghiệm mà bất kỳ là ai cũng có thể thử làm và tự chứng minh được cái luật ấy. Một khi ta đã chứng minh được thì quyền năng đó có thể dùng để gây dựng đức tánh này, rồi đến đức tánh khác, và cũng tùy theo cách đó cho đến khi con người tạo ra được một tánh nết lý tưởng nhờ quyền năng tư tưởng. Quyền năng này còn một công dụng nữa là giúp ích cho đời bằng cách gởi đi những tư tưởng tốt; như thế ấy, ta có thể giúp người bạn thiết trong cơn sầu não bằng cách gởi đến va những tư tưởng yên ủi, giúp người bạn đang tìm chơn lý mà ta đã biết được với những tư tưởng minh bạch, xác định của ta. Ta có thể phóng ra trong cõi Thượng giới, những tư tưởng đủ sức nâng cao, rửa sạch và khuyến khích tất cả những người nào dễ thụ cảm, những tư tưởng bảo vệ sẽ là vị thần hộ mệnh của những người mà ta thương yêu.
Tư tưởng thích hợp xứng đáng là một ân huệ liên tiếp mỗi người có thể phóng ra xa, khắp chung quanh mình.
Nhưng mà ta cũng nên biết bề trái u ám của viễn cảnh sáng lạn này. Tư tưởng xấu cũng có kết quả lẹ làng trong công việc quấy, giống tư tưởng tốt giúp cho công việc lành. Tư tưởng có thể chuyên chữa hoặc làm giảm bớt điều phiền não thì cũng có thể gây ra nguyên nhân sự khổ não được vậy; nó có thể làm suy nhược tất cả, cũng như có thể an ủi được. Những tư tưởng xấu rải ra trên không khí Thượng giới, đầu độc những tinh thần dễ thụ cảm; những tư tưởng phẩn nộ và thù hận giúp sức cho hành động sát nhơn, những tư tưởng hiểm độc đối với đời giúp cho ngọn lưỡi nói hành càng thêm sắc sảo, nó thêm cánh cho mũi tên bắn ra hại kẻ công bình.
Cái trí chứa những tư tưởng xấu hành động như đá nam châm để rút những tư tưởng xấu do nguồn gốc khác và làm cho nó càng ngày càng thêm xấu nữa.
Suy nghĩ điều quấy là một bước đến sự phạm lỗi và một sự tưởng tượng nhơ bẩn khiến cho ta thực hiện gấp rút những điều ghê rợn của mình đã sinh ra. “Con người tưởng cái gì thì sẽ thành cái nấy”, đó là cái luật áp dụng vào tư tưởng xấu cũng như tư tưởng tốt.
Vả lại, nhấn mạnh về một tư tưởng xấu, có kết quả trước nhứt là cổi bỏ lần lần những sự khả ố của tư tưởng đó xúi giục người sanh ra tư tưởng xấu phải thực hành điều y đã tưởng.
Đó là “Luật tư tưởng” và quyền năng của nó. Hữu phước thay kẻ nào đã biết được điều ấy và đem ra lợi dụng.
CÁC GIAI ĐOẠN TRÊN ĐÀNG ĐẠO
Quá trình thông thường của sự tấn hóa nhơn loại là đưa con người tiến lên từng giai đoạn này đến giai đoạn khác. Nhưng mà khoảng chia cách bậc vĩ nhân và thánh nhơn [8] đối với người đã tới “ngưỡng cửa Thiên đình” rộng lớn vô cùng, nó còn rộng lớn hơn nữa đối với người đã thực hành toàn vẹn lời khuyên của đấng Christ: “Hãy trọn lành như Cha các ngươi ở trên Trời trọn lành vậy [9]”. Phải chăng có một con đường dắc đến cái cửa chánh mà các Thánh kinh có dạy: “Khó khăn thay cái cửa chánh và chật hẹp thay con đường dắc đến sự sống, và ít thay số người gặp được cửa chánh và đường hẹp”. Ai là người trọn lành mà đức Thánh Phao Lô (Saint Paul) đã nói ?
Sự thật, có một con đường đưa đến cửa chánh này và rất ít người để bước vào con đường chật hẹp đó. Cửa chánh ấy là cửa Điểm đạo cũng gọi là: “Sanh lại lần thứ nhì” hoặc “Làm lễ rửa tội” (baptême) của Đức Thánh linh và Lửa; ấy là con đường Đạo dắc đến sự hiểu biết Đấng Thượng Đế, Ngài vốn là sự Sống trong cõi Trường tồn bất diệt.
Ở Phương Tây, những giai đoạn liên tục của đường đạo đã được các nhà Thần bí học gọi là sự Luyện tội (Purgation, sự Giác ngộ (Illumination) – và sự Hiệp nhứt (Union). Ở Đông Phương thì nhà Huyền bí học, người Thông hiểu, hoặc là nhà Cao đẳng Thần học thấy các giai đoạn này có khác chút đỉnh và chia đường đạo ra làm hai giai đoạn lớn: Thời kỳ nhập môn (probation) và con đường Đạo chánh thức cũng giống như “sự Giác ngộ và sự Hiệp nhứt”. Hơn nữa, trong thời kỳ nhập môn nhà Huyền bí học phải lo mở những đức tánh chỉ định đặng bước vào cửa Đạo mới, chấm dứt thời kỳ nhập môn này; một khi đã bước trên con đường Đạo rồi phải tự mình chặt đứt mười dây chướng ngại ngăn cản không cho ta đến nơi Giải thoát hay là nơi cứu cánh cuối cùng và vượt qua bốn cửa chánh khác nữa gọi là Điểm đạo.
Muốn bước qua cửa Đạo thứ nhứt, phải mở mang mỗi đức tánh sau này đến một hạn độ. Những đức tánh đó là :
1.- Sự phân biện hay là năng lực biết được sự chơn và sự giả, cái vĩnh viễn với cái vô thường (giả tạm) ấy là cặp mắt tinh đời thấu đáo được cái Thực và biết được cái Hư, trá hình bất cứ dưới hình thức nào.
2.- Dứt các sự ham muốn hay là quan năng thoát ngoài vòng ham muốn những vật tạo ra sự khoái lạc hoặc xua đuổi những vật sanh ra đau khổ nhờ hoàn toàn làm chủ mấy thể thấp và vượt khỏi “phàm nhơn”.
3.- Sáu qui tắc về Hạnh kiểm :
a/ kiểm soát cái trí
b/ kiểm soát thể xác (lời nói và việc làm)
c/ khoan dung
d/ nhẫn nại hay là bình tĩnh
e/ sự thăng bằng (quân bình) hay điềm đạm
f/ tự tin
4.- Sự hấp dẫn để hiệp nhứt hay là lòng bác ái.
Đó là những đức tánh mà sự mở mang của chúng nó dắc đến sự Điểm đạo kỳ nhứt; phải chí quyết chăm chỉ khi mà ta quyết định tiến tới lẹ làng để thành ra “người giúp đỡ nhhơn loại”.
Khi người nào có đủ mấy đức tánh này đến một trình độ đủ sức “gõ cửa” đặng người ta mở cho va thì va đã sẵn sàng vượt qua ngưỡng cửa chánh và đi trên đường Đạo. Va đã được “điểm đạo”, va “sanh ra lần thứ nhì”. Người ta gọi va là người “du phương”, người đi ta bà (nói theo Ấn Giáo), (l’Errant, Parivrajaka), hoặc nói theo Phật Giáo thì gọi là người “nhập lưu” (Srotapana, Sotapana) (Tu đà huờn).
Trước khi được điểm đạo kỳ nhì phải trừ cho được hoàn toàn những chướng ngại này.
1.- Ý chia rẽ (nghĩa là phải thấy tất cả linh hồn là một).
2.- Sự ngờ vực (phải thực hiện chớ không phải tin mà thôi những chơn lý lớn là luật Quả bảo, Luân hồi và sự tận thiện tận mỹ mà ta có thể đạt được khi theo con đường Đạo).
3/ Sự dị đoan (nhứt là đức tính căn cứ vào các nghi thức và lễ bái). Khi ba điều trở ngại này tiêu mất, con người đã được điểm đạo lần thứ nhứt, sửa soạn bước qua “cửa chánh” thứ nhì; và trở nên người “Kiến thiết” (Constructeurs – Kutichaka) hoặc là người trở lại cõi trần một lần nữa (Tư đà hàm – Sakadagamin). Người bây giờ phải tập phát triển những quyền năng của các thể tinh vi, (người ta gọi là mở những phép thần thông) hầu có đủ năng lực làm viêc trong ba cõi.
Sự vượt qua cửa chánh thứ ba của người đã được điểm đạo là “Hiệp nhứt” (l’Uni = Hamsa – Tôi là Ngài) hoặc gọi là “Người không trở lại trần nữa”, chỉ trừ khi nào ý người muốn trở lại thì không kể. Ấy là vị “A na hàm” (Anagamin). Bởi vì trong thời kỳ sanh sống này, Người phải lo vượt qua luôn Cửa thứ tư và Người nào qua được khỏi cửa chót này thì chẳng cần đầu thai lại nữa. Bây giờ, Người phải dứt bỏ các chướng ngại của sự ham muốn (sự ham muốn hiếm có còn sót trong người) và sự xô đuổi chẳng có gì mà xô đuổi Người nữa; bởi vì đến đây, Người phải thấy được sự Hiệp nhứt. Nếu được vậy thì Người đã vượt được “cửa thứ tư” và trở thành người thoát tục. (Super individu – Paramahamsa - Ngoài bản ngã) hay là “Người đáng kính”, Tôn giả (Arhat – La hán).
Còn năm điều chướng ngại tinh tế cầm giữ Người lại nữa; rất khó mà dứt cho hết cái lưới nhện khéo léo của nó, đến đỗi bực La hán thường thường phải mất bảy kiếp mới đến bực Chơn sư – Người hoàn toàn, Người trường sanh, Siêu nhơn, “Người không còn phải học trong Thái dương hệ này” (vì Người có thể biết được lập tức những cái gì Người muốn biết, chỉ chú ý vào nó).
Năm chướng ngại này tuy tế nhị mà bền dai lắm, ấy là :
1 - Ý muốn sống trong hình thể
2 - Ý muốn sống ngoài hình thể
3 – Tự hào về sự trọng đại của công việc thi hành
4 – Sự có thể cảm nhiễm bởi bất kỳ sự gì xảy đến
5 – Và rốt lại là sự ảo ảnh, là bức màn tinh vi chót, còn có thể làm cho “Sự thật” phải biến hình, tức là “Vô minh”.
Khi tất cả những hạn chế đã dứt tuyệt, “con người” đã thắng trận, đã mãn lớp học làm người; “con người” đã trở thành một “cây trụ” trong đền thờ Đức Thượng Đế và không khi nào bỏ đi ra nữa.
Ấy là Người trọn lành, một trong những “Người sanh ra trước”, một người Anh Cả của giống dân ta.
NHỮNG HUYNH TRƯỞNG CỦA CHÚNG TA
Chúng ta đã miêu tả các cấp bực mà mỗi người phải vượt qua để tiến đến bực siêu nhơn. Bây giờ, chúng ta hãy quan sát các mối liên quan với các thế giới của những vị đã đến một bực cao như thế nhưng mà các Ngài vẫn còn ở trong gia đình nhơn loại mà các Ngài là những bực Huynh trưởng.
Tất cả các tôn giáo lập ra đều do một vị Giáo chủ là người đã vượt hẵn trên nhơn loại; tất cả sử sách xưa đã chép rằng: có những vị Siêu phàm đã sắp đặt nền tảng của quốc gia và dìu dắc họ trong lúc họ còn ở trong thời kỳ ấu trĩ và niên thiếu; người ta còn nói đến các vị Thánh đế, những triều đại vua chúa thiêng liêng, vị Thánh sư; toàn thể bằng chứng của thời kỳ dĩ vãng đều in nhau như thế, những dấu vết của những nền cựu văn minh hùng cường như thế thì chúng ta không thể nào cho rằng các bằng chứng này không có giá trị, cũng không thể biện hộ rằng những nền văn minh đó là sản phẩm của một giống dân còn trong thời kỳ ấu trĩ tạo ra mà không có sự can thiệp nào cả. Nên để ý những Thánh kinh xưa nhứt thì cao thượng nhứt và phi thường nhứt.Thanh tịnh kinh của người Trung hoa (Le classique de la Pureté), kinh U ba ni sa của Ấn độ (les Upanishads), kinh Ga ta của Ba tư (Les Gathas) là những kinh thật cao thâm, hơn cả các kinh sách đạo đức khác cũng ở các xứ đó mà viết ra sau. Phần luân lý trong mấy quyển kinh đáng kính trọng này được phô bày dưới hình thức những điều xác định có chứng điển chớ không phải như những giáo lý của người Scribes (pháp sư Do thái).
Chẳng có tôn giáo nào chối cãi hoặc khinh bỉ mấy việc ấy, nếu chúng nó thuộc về những vị giáo chủ và những Thánh kinh riêng của mình, nhưng khốn nổi phần nhiều lại có ý phủ nhận hoặc khinh bỉ khi chúng nó thuộc về những vị giáo chủ và Thánh kinh của các tôn giáo khác. Các sinh viên của trường “Minh triết” hiểu rằng: mỗi điều xác nhận phải được chấp thuận hoặc bác bỏ một cách vô tư và những nhà huyền bí học biết rằng: tuy có nhiều chuyện thần thoại và truyền kỳ đã tạo ra chung quanh các vị Đại thánh ấy, nhưng thật ra, dầu xưa hay dầu nay, chẳng có lúc nào mà không có các Ngài [10] .
Quần Tiên Hội đương cai trị, dạy dỗ và dìu dắc các thế giới, là một Tổ chức có cấp bực; mỗi cấp bực có nhiều phận sự riêng biệt. Các Ngài thi hành phận sự một cách hoàn toàn điều hòa. Các Ngài lo làm cho xong một phần Thiên cơ của Đấng Chí tôn tức là Đức Thái Dương Thượng Đế mà trong công việc đó các Ngài “thật là hoàn toàn tự do”. Có hai Cung trong những Cung quan trọng hơn hết của Quần Tiên Hội là: Cung cầm quyền thống trị và Cung cầm quyền dạy dỗ các thế giới của chúng ta.
Những vị mà Ấn độ gọi là bốn vị Koumaras, là những vị chỉ huy Cung thống trị, còn các vị Bàn cổ của các giống dân (Manous des Races) là những viên quan phụ tá của Ngài; thấp hơn các Ngài là các vị siêu phàm trong đó có những vị đang ở cấp bực Tiên trưởng mà chúng ta gọi là Chơn sư và đương thi hành các chi tiết của công việc này. Các Ngài lại lãnh phần dìu dắc cuộc tấn hóa, đào tạo các giống dân, dắc dẫn họ đến những vùng đại lục mà họ phải ở, trông nom các định luật gây ra sự thăng trầm của các giống dân, các đế quốc, các nền văn minh.
Cầm đầu Cung giáo dục là Đức Toàn giác tức là Đức Phật; khi từ giã cõi hồng trần, Ngài giao pháp trượng của Đức Giáo chủ cho vị lên thế cho Ngài là Đức Bồ Tát. Đức Bồ Tát sẽ thành Phật như Ngài. Đức Bồ Tát là Đức Chưởng giáo của các cõi Trời. Vị Giáo chủ tối cao này luôn luôn có mặt, Ngài linh cảm những đức tin của thế gian, Ngài rèn đúc lần lần cho chúng nó trở nên hữu ích trong sự tấn hóa của nhơn loại và dìu dắc mỗi tôn giáo lên cao thêm, tùy theo sự ương ngạnh hay vô minh nhiều hay ít của con người, Ngài nhờ có những phụ tá trong hàng ngũ Tiên thánh trợ giúp. Các lượng sóng tinh thần to tát phát sanh từ nơi Quần Tiên Hội đem nguồn sống thấm nhuần thế gian.
Trong các vị Tiên trưởng kể trên, có nhiều vị được riêng gọi là “Chơn sư”. Các ngài thâu nhận làm đệ tử người nào có một trình độ tấn hóa gần kề “cửa chánh điểm đạo” và đang cố gắng để mở mang những đức tánh đã kể ra trước đây.
Nhiều vị đã đến bực năm lần điểm đạo lại không chịu thâu nhận đệ tử vì còn bận nhiều công việc giúp đỡ nhơn loại. Nhưng có nhiều vị cao hơn bực Chơn sư nữa mà vẫn còn giữ lại các đệ tử chơn thành với các Ngài từ lâu vì tình liên lạc quá mật thiết và quá bền chắc nên không lìa nhau được.
Hội Thông Thiên Học là con đường mở rộng, người ta có thể theo đó để tìm các vị Đại Giáo chủ này và chắc chắn sẽ gặp được các Ngài. Hiện giờ, có nhiều người đã gặp các Ngài tận mặt, riêng tôi, kẻ viết mấy hàng này, tôi có thể thêm bằng chứng hèn mọn của tôi vào những bằng chứng đã truyền lại cho chúng ta từ ngàn xưa, bởi vì chính tôi cũng thấy và biết.
[2] Ông W.K.Clifford ngày nay đã từ trần, dường như hiểu biết chất khí trí tuệ là một trong những chất làm ra Vũ trụ. Ông nói nếu cho rằng mỗi lực đều đòi hỏi một vận cụ để biểu hiện thì tư tưởng được xem như một lực cũng phải cần dùng một chất khí đặc biệt để hoạt động.
Xin xem quyển Đời sống huyền bí của con người.
[3] Xin nhớ : Ý thức hay Tâm thức cũng đồng nghĩa.
[4] Trong cái Vía của người tiến hóa thì:
Màu lục chỉ về tánh Thiện cảm và Thích nghi
Màu hường là có lòng Từ ái
Màu xanh là lòng mến Đạo
Màu vàng là dấu hiệu khôn ngoan
Màu tím ở trên đầu chứng tỏ trạng thái mở mang về phần Tinh thần.
[5] Không phải nhảy mũi nào cũng là linh giác cả. Còn nháy mắt là một cái điềm tốt hay xấu, tùy theo con mắt và tùy theo người.
[6] Cõi Bồ đề.
[7] Trạng thái
[8] Thánh nhơn theo nghĩa thông thường ngoài đời
[9] Thành chánh quả
[10] Các Ngài trường sanh bất tử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét