Vào thời điểm này trong hành trình học hỏi của mình, tinh thần ăn chay tuyệt vọng trong tôi đã phải thừa nhận điểm sau đây: Nông nghiệp không thể thực hiện được trên hai phần ba diện tích đất đai trên thế giới. Nó quá lạnh, quá dốc, quá ẩm, quá khô. Câu trả lời của tôi cho điều này: được rồi, vậy con người không nên sống ở những nơi đó. Thực tế rằng chính tôi đang sống ở một trong những nơi như vậy - New England, với những ngọn đồi đá lạnh giá phủ một lớp đất mỏng bạc màu - bị đặt ra ngoài ý thức của tôi. "New England là vùng đất có rừng phủ một cách tự nhiên, và nông nghiệp chưa bao giờ phù hợp với hầu hết vùng đất này," tôi đọc và nhanh chóng quên nó đi.
Tôi cũng phải thừa nhận rằng trồng cây độc canh ngắn ngày ở những nơi có thể trồng được cuối cùng sẽ hủy diệt đất đai nơi đó. Tôi trả lời điều này bằng lời cầu nguyện tới Wes Jackson, hy vọng rằng ông ta sẽ thành công khi tôi còn sống,và một kế hoạch mơ hồ: trồng thật nhiều cây lâu năm cho hạt khi mà cái trang trại tôi vẫn hằng mơ ước thành hiện thực.
Tôi thừa nhận rằng tưới nước cho nông nghiệp là không thể chấp nhận được. Tôi không có vấn đề gì với điều đó. Nếu điều đó có nghĩa rằng dân số con người phải ít đi thì chúng ta phải bắt tay vào công cuộc giảm con số của chúng ta và nâng cao vị thế của phụ nữ.
Tôi thừa nhận rằng tôi sẽ phải cần các động vật được thuần hóa - sức lao động của chúng và các sản phẩm từ cơ thể của chúng - để làm nông trại một cách bền vững. Tôi còn cần phân cùng xương và máu của chúng, những thứ khó có thể tưởng tượng nổi. Tôi bước qua rồi lại bước lại một lằn vạch đạo đức rất hẹp, kinh hoàng trước sự sẵn sàng tham gia vào việc thuần hóa động vật của mình, điều mà theo định nghĩa là bóc lột động vật. Làm thế nào tôi có thể ngăn côn trùng ăn thực phẩm của tôi? Gà và vịt là câu trả lời theo cách canh tác bền vững, hoàn toàn trái ngược với câu trả lời từ giới ăn chay.
Và còn phân bón thì sao? Có thể tôi sẽ tìm được một nguồn phân chuồng thừa nào đó. Vâng, có thể tôi sẽ tìm được, nhưng nó giống như gợi ý rằng đi bới rác là giải pháp cho sự áp bức kinh tế. Tôi sẽ chỉ lờn vờn ở ngoài và giả bộ mà không giải quyết được gì cả. Thực tế cơ bản vẫn vậy: ai đó phải nuôi giữ những con bò và con dê ấy để tôi có thể dùng phân của chúng. Động vật, bị bóc lột để lấy sữa, thịt và trứng, là cần thiết để tôi có thể trồng nên thực phẩm của mình, dù tôi có nuôi giữ và ăn chúng hay không.
Có thể - tôi nhích dần sang phía của sự tà ác - có thể tôi sẽ nuôi chúng mà không bóc lột chúng. Tôi có thể nhận nuôi những con vật không ai muốn - gà mái già, dê đực - cho chúng sống hết cuộc đời tự nhiên, và để đổi lại, tôi được nhận phân và dịch vụ bắt sâu bọ của chúng. Được rồi, đó là một thỏa hiệp, phụ thuộc vào thịt và sữa. Những con vật ấy đã có ở đây. Và chúng không phải chết. Phải vậy không?
Bởi vì rất nhiều thứ khác phải chết. Tôi đang có một trận tử chiến với những con ốc sên. Vào lúc thời tiết khô, chúng chỉ phá hại khu vườn. Vào lúc trời mưa, chúng hủy hoại tất cả khu vườn. Tôi cứ trồng các mầm cây thì chúng lại bị ăn đến tận gốc chỉ 24 giờ sau đó. Hóa chất độc là điều hoàn toàn không thể. Nó sẽ giết và tiếp tục giết hàng triệu con vi khuẩn mà tôi đang cố khuyến khích phát triển, cùng những con chim, bò sát và tích tụ dần lên phía trên chuỗi thức ăn,lan tỏa bóng đen của ung thư và tác hại di truyền trên một hành tinh đang ngày càng tối dần. Vậy nên tôi thử một giải pháp hữu cơ: đất diatomaceous.Nó có tác dụng. Chỉ trong hai ngày, khu vườn sạch bóng ốc sên, và những cây xà lách là của riêng tôi. Và rồi tôi tìm ra nó hoạt động như thế nào. Đất diatomaceous là cơ thể cổ xưa của những con vật nhỏ xíu thời tiền sử, đã được nghiền thành bột. Mỗi hạt bột ấy có những cạnh sắc nhỏ xíu. Nó giết bằng tác động cơ học.Những con vật bụng mềm như ốc sên trườn qua đó và nó cắt hàng triệu vết cắt lên da của chúng. Chúng chết vì mất nước dần dần.
Tôi kinh hoàng với điều tôi đã làm, và kinh hoàng hơn nữa vì tôi đã không hề nghe ai nói về điều đó. Sự phẫn nộ ở đâu? Có sự tương đồng rất lớn giữa những người ủng hộ ăn chay và ủng hộ thực phẩm hữu cơ, cả hai đều đứng dưới cái khẩu hiệu lối sống bền vững, tiến bộ đến cực đoan. Có một tập hợp mơ hồ "rất nhiều người", những người biết rằng thịt bê đồng nghĩa với sự tra tấn, rằng rau thơm là vị thuốc cho con người, rằng Oreos có chứa mỡ lợn. Ốc sên cũng là động vật: tại sao không ai quan tâm?
Và trong một giây thoáng qua, tôi biết câu trả lời: ốc sên không biết kêu gào.
Hàng rào đồng có thể ngăn ốc sên, nhưng tôi không đủ tiền mua thứ đó. Tôi thử đến những thứ thực sự kỳ quái: tôi cầu nguyện, tôi hát, tôi đốt các loại thảo mộc linh thiêng từ đủ mọi nơi, tôi dâng lễ vật, tôi van nài Đức Mẹ Ốc Sên. Nhưng những con ốc sên bình thường không quan tâm. Chúng muốn ăn, và tôi không thể trách chúng được.
Thế là tôi thử nhặt bằng tay. Tôi đặt đồng hồ để thức dậy vào nửa đêm và vừa đi vừa vấp ra ngoài khu vườn tối, nơi mà sương đêm lạnh lẽo thấm đẫm qua đôi giầy vải của tôi. Tôi nhặt và nhặt và nhặt. Tôi làm giảm tốc độ phá hoại của chúng, nhưng chúng vẫn thắng. Và buổi sáng hôm sau, tôi có một hộp nhựa to đầy ốc sên. Làm gì bây giờ?
Có một Trang trại Tiếp nhận Ốc sên ở đâu đó không? Tôi xỏ chân vào đôi giày vẫn còn ẩm của mình, nhảy lên xe đạp và đạp đến chỗ dãy nhà kết thúc và một vạt cây bắt đầu. Và? Tôi biết: cảm giác hồi hộp chắc đang hành hạ bạn. Tôi thả chúng đi. Việc mà, như bạn có thể tưởng tượng, mất nhiều thời gian hơn thả một con sóc chẳng hạn. Cuối cùng, tất cả bọn chúng cũng bò chậm rãi đến với tự do. Nhưng thời gian chờ đợi đã đủ cho tôi quan sát, và để cho sự quan sát ấy lớn lên thành sự hiểu biết: không có nhiều thứ để cho chúng ăn ở đây. Không nhiều so với khu vườn của tôi. Hai cộng hai bằng ... Đấy là lý do tại sao có nhiều ốc sên trong vườn của tôi như vậy.
Còn ở đây? Chúng sẽ chết đói. Cái vạt cây nhỏ này đã có đủ số lượng ốc sên mà nó có thể nuôi sống. Đấy là điều mà thiên nhiên làm: nó lấp kín mọi chỗ. Nếu có một bữa trưa miễn phí, ai đó sẽ ăn nó. Ở trong cái vạt cây yên tĩnh ấy, tri thức của người trưởng thành bắt đầu dâng lên trong tôi như một dòng sông chậm rãi.Những con ốc sên - những con ốc sên này hay những con ốc sên khác - sẽ chết, và chúng sẽ chết để tôi có thể được ăn. Nhưng rặng cây không bị thống khổ bởi sự thật ấy, ít nhất là tôi không thấy vậy. Sự yên lặng của rặng cây, của thời gian thấm dần qua những cái cây, cái lá, mục ruỗng và rồi lại thành cây, là lời cầu nguyện của riêng nó. Và đó không phải là lời cầu nguyện ăn năn, mà là lời cầu nguyện tạ ơn.
Nếu những con ốc sên phải chết, thì tôi phải trung thực. Tôi phải đối mặt với nó. Miếng ăn của tôi - cuộc đời của tôi - phải dựa trên sự chính trực và lòng can đảm.Nếu tôi phải sát sinh - nuốt nước mắt, ngẩng cao đầu - phải giết cái gì đó, thì ít nhất tôi sẽ làm vậy một cách ít đau đớn nhất có thể. Đất diatomaceous mất hai ngày. Chắc chắn có cách gì đó nhanh hơn.
Bia. Ốc sên rất mê thứ đó. Chúng uống cho đến khi say, và rồi chúng chết đuối. Ít nhất là chúng chết một cách đê mê và hạnh phúc. Tôi mua một can lớn thứ bia rẻ tiền và đổ vào những cái hộp nhỏ rải rác khắp vườn salad. Tôi đi ngủ với một quyết tâm sắt đá: đêm nay, tôi sẽ sát sinh.
Và tôi tỉnh dậy lúc hai giờ sáng trong cơn hoảng loạn. Tôi không thể làm thế được. Xỏ giầy lên, đi ra ngoài đêm sương giá, đổ hết chỗ bia đi. Nếu tôi có phải bỏ hết khu vườn đi năm nay, ít nhất tôi cũng sẽ không sát sinh.
Một tuần sau, tôi buộc phải đi vào khu rau quả ở siêu thị, vẫn sung sướng rằng tôi chưa sát sinh. Với đôi tay ăn chay sạch sẽ, không nhuốm máu của mình, tôi nhặt một cây xà lách lên.
Mày đang định lừa ai vậy? có thể là những từ đầu tiên của cuộc sống người trưởng thành của tôi. Mày nghĩ rằng những người trồng nên cái cây xà lách ấy không giết ốc sên?Hay nếu họ không làm vậy thì cái thứ thực phẩm trồng trên mảnh đất bị hủy hoại bởi canh tác công nghiệp đến mức nó không thể nuôi dưỡng bất cứ sự sống nào khác ngoài những cái cây xà lách chứa đầy hóa chất ấy có giá trị gì?
Và không chỉ ốc sên. Thỏ, cáo, chuột đồng, hươu. Tôi biết thực phẩm của tôi phải chiến đấu với những con gì. Ở trong cái dãy rau quả ấy, dãy thực phẩm chay, thuần chay là đằng khác, tôi biết rằng không có lối thoát. Cái chết nằm trong màu đỏ của quả ớt ngọt, trong vị ngọt của trái dưa. Nó ẩn nấp sau màu xanh của cây xúp lơ xanh và nó bảo vệ sự mềm mại của cây xà lách.
Và tôi tìm cách xoay xở một lần nữa. Được rồi, những con ốc sên phải chết, nhưng tôi vẫn sẽ không sát sinh. Tôi sẽ nuôi gà và vịt và chúng sẽ giết những con ốc sên. Giết hộ tôi? Không, đấy là bản chất của chúng. Bản năng của chúng là săn côn trùng.Và cái chết từ những con vịt nhanh hơn là từ đất diatomaceous. Nhanh như là tự nhiên đã định vậy. Chẳng phải cái chết là tự nhiên hay sao?
Có phải không? Hay là không phải? Tôi muốn câu trả lời ngả về bên nào?
Bởi vì nếu cái chết là tự nhiên - một phần của sự sống, chứ không phải một sự báng bổ đối với sự sống - thì tại sao tôi lại phải ăn thuần chay?
Tôi không nghĩ đến điều đó. Thay vào đó, tôi đi tìm những chương về gia cầm trong các cuốn sách dạy sống tự cung tự cấp của tôi. Tôi đau đớn, tôi vật lộn và tôi trì hoãn. Tôi cũng đã chuyển vào ở với một người có nhà trên mảnh đất rộng hai hecta, có hai đồng cỏ và phần còn lại là rừng phong và thông. Trang trại có thể bắt đầu.
Cuối cùng 25 con gà con đã được chở về, một hộp đầy sự dễ thương bằng lông và thịt. Đừng có nói về tình yêu trẻ em của Trollope. Tôi mê mẩn với những con gà. Tôi ngồi hàng giờ chỉ để ngắm chúng. Chúng là niềm vui trong những ngày tháng của tôi. Năm sau, vịt và ngỗng đến làm bạn với chúng, rồi đến chim bồ câu. Và bản chất của chúng là làm những nhiệm vụ mà tôi cần. Chúng ăn sâu bọ. Trên thực tế, những con gà ăn bất cứ thứ gì chuyển động: chuột, ếch, rắn. Có lần tôi tìm thấy một cái đuôi chuột ở trong khu chuồng của chúng: chỉ cái đuôi thôi. Tôi đã nhìn thấy chúng đuổi những con sóc. Tôi thấy buồn cười cho đến khi tôi nhận ra rằng nếu chúng đủ thông minh để săn theo đàn thì chúng có thể săn cả sóc. Trên thực tế, vị trí của chủ ngữ và vị ngữ trong câu "người ăn thịt gà" có thể được hoán đổi. Chúng ăn hầu như bất cứ thứ gì tôi không muốn ăn, và chúng ăn rất nhiều thứ mà tôi không thể ăn, như là cỏ chẳng hạn. Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày đầu tiên tôi mang Miracle (nghĩa là điều kỳ diệu), con vịt nhỏ của tôi, vào trong vườn. Tôi không cần phải dạy nó. Nó tự biết. Một cú đớp và những tiếng quác quác vui sướng nổ tung ra từ nó: đây là thứ tôi sinh ra để làm! Những con ốc sên đi vào dĩ vãng. Và tôi không sát sinh.
Eichmann cũng không hề sát sinh, Tiếng nói của Tâm thức Ăn chay thì thầm. (ND: Eichmann là một quan chức Đức quốc xã, có vai trò quan trọng trong việc tổ chức vận chuyển người đến các trại tập trung.) Đây có phải là lò sát sinh cho động vật, những con lông mao, lông vũ và vỏ cứng hay không?Nhưng mọi thứ có vẻ quá yên bình. Những con gia cầm rõ ràng là rất hạnh phúc trong việc săn bắt sâu bọ.
Chắc chắn rồi, và Arbeit Macht Frei (ND: cụm từ tiếng Đức "lao động mang lại tự do", được viết ở lối vào các trại tập trung của phát xít Đức). Tất cả những gì Eichmann làm là tổ chức việc vận chuyển. Chẳng phải đấy là những gì mày đang làm hay sao?
Nhưng tôi phải ăn cái gì đó, tôi van nài, bị đẩy đến đoạn cuối trong giới hạn đạo đức của mình. Phải ăn cái gì đó. Phải vậy không?
Qua khỏi bến bờ của thế giới ăn thuần chay là đại dương của những người ăn toàn trái cây, và chuyến tàu đi đến vùng đất hứa của breatharian - những người tin rằng trên thực tế con người không cần ăn.
Tôi đã gặp vài người trong số họ trên con đường hành đạo ăn chay của mình. Họ tỏa ra một nỗi ám ảnh mãnh liệt đối với thực phẩm. Khi nào thì họ có thể ăn nữa, và ăn bao nhiêu là những nỗi bận tâm luôn căng thẳng trong tâm trí họ. Người tra tấn hay người bị tra tấn?
Tôi nhớ đến Starling và nửa cốc sữa chua, chính xác nửa cốc,mà cô ấy ăn mỗi ngày. Một quả chuối cho bữa sáng, một chút sữa chua vào buổi trưa,một quả táo lúc 4 giờ chiều. Cô ấy đang tự "cai" khỏi thực phẩm và đặt mục tiêu sống hoàn toàn bằng không khí trong 6 tháng tới. Xem cô ta ăn giống như là xem một vận động viên, sự cân bằng chính xác giữa nỗ lực và kỷ luật. Liệu cô ấy có cắn thêm miếng nữa không? Có liếm giọt sữa lơ lửng ở đáy cái thìa không? Hay cô sẽ tự ép bản thân đến độ hoàn hảo, thực hiện theo đúng những gì đã định, để đạt đến đỉnh cao của ý chí và phần thưởng của nó, khả năng vượt qua mọi thứ nhẹ như không? Đó là nơi mà chứng biếng ăn kết thúc, và trạng thái sinh lý của sự chết đói bắt đầu. Khi đó cơ thể không còn thèm đồ ăn nữa, mặc dù lúc ấy tôi chưa biết điều đó. Có một thứ trong hành động của Starling mà tôi cũng muốn có: cái cảm giác nhẹ như không, vượt qua nhu cầu và cái đói, vượt qua cái chết. Nếu con đường đến đó đầy sự trừng phạt, tôi sẵn sàng chịu đựng, nếu mục tiêu đủ cao quý.
Vậy mục tiêu ấy cao quý đến mức nào? Nhìn qua con mắt ăn chay của tôi, nó là điểm kết thúc cho cái mong muốn tuyệt vọng không phải sát sinh của tôi. Tôi sẽ không phải sát sinh chút nào, thậm chí ngay cả cây. Nhưng nhìn qua con mắt của người hoạt động chính trị, nữ quyền, tôi không thoải mái với dự tính ấy cho lắm. Các tôn giáo trên khắp thế giới thực hành đủ loại hoạt động khổ hạnh như nhịn ăn kéo dài, và điểm chung mà các tôn giáo ấy có là chế độ phụ hệ. Vị Chúa đàn ông của họ bị tách rời khỏi Trái Đất, và sự thánh khiết được đạt tới bằng cách chối bỏ thế giới, chối bỏ xác thịt. Đối với họ, phụ nữ chỉ là sự cám dỗ của tội lỗi, cơ thể chúng ta là nguồn gốc của sự hổ thẹn chứ không phải những điều kỳ diệu.
"Sống mà không ăn, dĩ nhiên đó là sự chối bỏ nhu cầu vật chất và kết nối với thế giới này của bản thân," Joan Jacobs Brumberg viết trong cuốn Fasting Girls: The History of Anorexia Nervosa (Những cô gái kiêng ăn: Lịch sử của Chứng rối loạn biếng ăn). Cái phần ngoại đạo trong tôi nổi loạn chống lại ý tưởng gièm pha cái đói, tình dục, cơ thể - sự sống. Có cách nào nhịn ăn mà không kiêng khem, để ôm lấy cuộc sống trọn vẹn đến mức tôi có thể sống chỉ bằng không khí, ánh sáng và năng lượng vũ trụ không? Bất cứ cái gì ngoài những cái xác chết không?
Tôi có hai động lực cạnh tranh với nhau, hai hệ thống niềm tin đi vào đến tận tâm khảm tôi và mâu thuẫn với nhau. Ở tuổi 26, khía cạnh thực tế đã chiến thắng: tôi biết tôi phải ăn. Ngay từ khi là một thiếu niên, khả năng kiểm soát chuyện ăn uống của tôi đã rất tồi. Tôi không thể chịu đựng cơn đói - nó quá là khổ sở, và cuối cùng tôi luôn kết thúc bằng việc nhồi nhét ăn thật nhiều. Vậy nên tôi đặt hình ảnh Starling và ly sữa chua thiêng liêng của cô sang một bên, cùng với tất cả các câu hỏi của tôi về cơ thể và Chúa và sự ân sủng. Tôi trở thành người ăn thuần chay. Thế là chính đáng và thế là đủ.
Ngoại trừ việc bây giờ tôi lại đang sắp xếp để động vật bị giết, giết vì lợi ích của tôi. Trại tập trung Auschwitz của riêng tôi. Có lẽ đến lúc quay trở lại ý tưởng sống chỉ bằng không khí. Đến lúc đó, internet đã được phát minh ra, nên việc tìm hiểu khá dễ dàng. Tôi tìm ra Peter, một breatharian (người sống bằng không khí), cao 175 cm, nặng 52 kg. Anh ta tự hào về bản thân đến mức anh đăng ảnh của mình lên mạng. Trông chúng khủng khiếp. Tôi có cần phải nói ra lời rằng anh ta đang chết đói không? Anh ta có đường dẫn đến những trang ủng hộ hội chứng biếng ăn và những cách để giữ cho rối loạn ăn uống ăn sâu vào tâm sinh lý bạn. Anh ta tình nguyện dạy bạn cách làm thế nào phá vỡ chứng nghiện đối với - không, không phải sự căm ghét bản thân - mà là thức ăn. "Bạn có nôn ra không?? Nếu không,bạn có sẵn lòng thử giải pháp ấy không?"
Được rồi, tôi không cần đi sâu thêm vào cái thế giới hạnh phúc, lành mạnh của anh ta nữa. Nhưng còn những bài viết khác thì sao, những bài gợi ý về những khả năng thần bí? Jasmuheen (Ellen Greve) tuyên bố, "Tôi có thể sống hàng tháng trời không ăn uống gì cả ngoại trừ một tách trà. Cơ thể tôi dùng một thứ dinh dưỡng khác."
Chương trình 60 Minutes của Úc sắp đặt để quan sát bà ta. Bác sĩ Dr. Berris Wink,chủ tịch chi nhánh Queensland của Hiệp hội Y học Úc, buộc bà ta phải ngừng cuộc thử nghiệm sau bốn ngày. Tiếng nói của bà ta chậm lại, đồng tử giãn ra, và bà ấy "bị mất nước khá nghiêm trọng, có lẽ hơn 10%, gần đến 11% ... Mạch đập của bà ấy nhanh gấp đôi lúc bắt đầu. Nếu tiếp tục, bà ấy có thể sẽ bị suy thận."
Và rồi còn nhà sáng lập ra Học viện Lối sống chỉ bằng Không khí của Hoa Kỳ, với cái tên rất phù hợp Wiley Brooks. Ông ta tuyên bố đã sống chỉ bằng không khí trong 30 năm nay. Năm 1983, ông bị bắt gặp rời khỏi một cửa hàng 7-Eleven với bánh mì kẹp xúc xích và Twinkies. Ông thừa nhận thỉnh thoảng điểm xuyết những đợt nhịn ăn với Big Mac và Coke. Ông ta giải thích do sống với thực phẩm ăn nhanh vây quanh, ăn bớt chúng đi sẽ phục hồi lại sự cân bằng. Thật là một lời biện hộ sáng tạo phải không?
Rồi còn có những người đã chết: Verity Linn, giáo viên mầm non Timo Degen, Lani Marcia, Roslyn Morris. Jim Vadim Pesnakvà vợ ông ta Eugenia vào tù trong 3 năm vì liên quan đến cái chết của Morris.
Nhưng Hira Ratan Manek nói ông có thể sống chỉ bằng nước, thỉnh thoảng bổ sung với một tách trà và sữa. Ông ta được quan sát trong ba đợt nhịn ăn kéo dài. Tuy nhiên, trong những đợt nhịn ăn ấy, ông ta giảm cân rất nhiều. Các bài viết xuất bản về những đợt nhịn ăn này cũng thừa nhận rằng hàng chục người có tiếp xúc với Manek trong thời gian nghiên cứu, và bản thân những nghiên cứu ấy cũng không đạt tiêu chuẩn của khoa học phương tây.
Prahlad Jani cũng tuyên bố là một người sống bằng không khí, mặc dù tạp chí The Indian Rationalists gọi ông ta là "một tên lừa đảo làng xã." Nhưng còn đầy rẫy những bài viết khác với những gợi ý hấp dẫn cho bất cứ ai dễ tin. Những người tập luyện Khí công Trung Quốc và các môn bí truyền khác cũng đưa ra đủ loại tuyên bố. Những người cả tin và tuyệt vọng có rất nhiều tài liệu để đi theo.
Một ví dụ cụ thể. "Cậu này, ừm, cậu có nghĩ..." tôi ấp úng. Nói một điều gì đó thành lời luôn làm nó trở nên thật hơn. Tôi cố gắng nói ra được từ "breatharian" (người sống chỉ bằng không khí).
"Lierre," cô bạn yêu quý của tôi trả lời, với cái giọng chán nản, bực bội được kìm nén một cách kiên nhẫn mà tôi đã buộc cô ta phải luyện đến mức hoàn thiện, "nó được gọi là hội chứng rối loạn biếng ăn. Và,"cô ấy tiếp tục, nhấn mạnh từng từ, để đảm bảo tôi nghe rõ, "nếu cậu thử làm vậy, tôi sẽ chuyển ra ngoài."
Tiếng nói của lý trí có thể mang lại hiệu quả kỳ diệu cho những người như tôi.
"Nhưng những người tu hành cổ đại ở Tây Tạng..." tôi tiếp tục, hy vọng một cách cháy bỏng rằng cô ấy sẽ có thể ngăn tôi lại.
"Được rồi, hãy giả sử là nó đúng. Liệu có phải cách sử dụng tốt nhất cuộc đời của cậu là đi đến Tây Tạng để tìm mấy ông thầy trên một đỉnh núi nào đó để cậu có thể học cách sống không cần ăn không? Có phải thực sự đấy là điều cậu muốn làm với thời gian cậu mà có hay không?"
Suy xét cả hai phía thì câu trả lời là không. Cứu lấy thế giới này có vẻ là cách sử dụng thời gian tốt hơn.Tôi được giải thoát.
Nhưng đổi lại, tôi phải chấp nhận cái chết. Bên cạnh ốc sên, có những thứ khác phải chết, rất nhiều thứ khác, và tất cả chúng đều có mẹ và có một gương mặt, nếu tôi để ý nhìn. Thông tin đang trở thành tri thức, tri thức mà tôi không biết bởi vì đơn giản là không có ai dạy cho tôi. Tôi được dạy phải nhìn hai bên trước khi đi qua đường. Tôi học đọc khi tôi học nói. Tôi thậm chí còn biết bí mật các em bé đến từ đâu. Tôi còn nhớ vào tuổi lên năm giải thích một cách nghiêm túc từ "âm đạo" cho một cô bé khác. Khi ấy tôi không biết từ "nữ quyền," nhưng đó là động lực của tôi. Nhưng còn thực phẩm? Đấy là một lỗ hổng kiến thức mà tôi không biết mà lấp kín cho đến khi tôi gần 40 tuổi, và chỉ sau khi đã chiến đấu với bản thân đến tàn tạ cả về tinh thần, thể xác và đạo đức.
Vậy là tôi nuôi 25 con gà. Tôi có thể chơi trò ú tim về đạo đức với những con côn trùng bị chết. Nhưng 25 con gà mái là 25 con gà trống chết. Đây là lý do tại sao.
Động vật có thể sinh ra theo tỷ lệ giới tính 50/50 nhưng chúng không nhất thiết sống như vậy. Một hình mẫu phổ biến là những con đực lớn đến tuổi trưởng thành và tham gia vào những trận đánh tranh giành ngôi thứ cho đến khi những con đực thừa thãi bị giết hoặc bị đánh bạt đi. Đây là sự thật hà khắc: bị đánh bạt đi có nghĩa là chết.Gà thường sống trong những nhóm khoảng 20 con mái với một hoặc hai con trống. Điều này không liên quan gì đến con người cả. Đó là cách loài gà đã sắp xếp như vậy. Những con gà trống đánh nhau cho đến khi hầu hết bọn chúng chết hoặc bị đánh bạt đi. Đi đâu? Đi vào bụng một con thú ăn thịt.
Và đó sẽ là chúng ta.
Cho nhiều gà trống hơn vào đàn gà là một hành động độc ác, độc ác với những con gà mái.Chúng sẽ có những vết cào rớm máu kéo dài suốt lưng do bị đạp mái quá thường xuyên. Tôi sẽ gọi đó là hành hạ động vật. Vậy tôi phải làm gì với những con gà trống thừa? Tôi thử nhốt những con trống và con mái riêng ra, nhưng những con trống dành cả ngày đi đi lại lại dọc hàng rào để cố sang bên những con gà mái. Trong thời gian rảnh rỗi, chúng đánh nhau máu me bê bết. Tiếng chúng đánh nhau không thể chịu nổi. Tôi căm ghét phải tưởng tượng mình đã thay môn đấu bò bằng môn chọi gà. Đó là năm đầu tiên nuôi gà của tôi, dưới khẩu hiệu "Trứng, không phải thịt!" Tôi tuyệt vọng muốn vạch ra một lằn ranh giới và giữ chắc bản thân ở bên của đạo đức. Cuối cùng, tôi tìm được người nhận nuôi hai con gà trống tốt nhất, một con Australorp đen và một con Araucana. Và những con còn lại? Tôi cho hết chúng cho một gia đình ở cuối đường, một gia đình nuôi gia cầm lấy thịt.
Tay tôi có sạch sẽ không? Chừng nào tôi không nhìn xuống chúng. Mảnh đất của tôi cần những con gà. Một số trong những con gà ấy phải chết. Dù tôi có ăn chúng hay không, để cho thực phẩm của tôi được bền vững và hữu cơ, một số động vật phải chết. Tôi cố chỉ mua gà mái từ lò ấp, nhưng tôi đã biết cái thông tin mà tôi đang cố chạy trốn khỏi. Nếu tôi mua 25 con gà mái con, có 25 anh em trai của chúng mà không ai muốn mua. Bởi vì không ai muốn gà trống.Những con gà mái giá một, hai, ba đôla một con. Những con gà trống họ cho cũng không ai lấy. Những người nuôi gà lấy thịt mua giống gà khác gọi là Cornish x Rocks, giống đã được chọn lọc để cho nhiều thịt.
Vậy là, tôi phát hiện ra, những con gà trống con bị giết. Chúng bị biến thành thức ăn cho chó, mèo hay phân bón cho vườn, trang trại. Nghĩa là chúng hoặc bị ăn bởi chó mèo của bạn, hoặc là bị ăn gián tiếp bởi bạn sau khi đã đi qua lượt cây trồng.
Xin đừng gợi ý rằng lẽ ra tôi nên "phóng sinh" những con gà trống ấy ở một vạt rừng nào đó. Mọi người thường xuyên vứt động vật đi tại các vùng nông thôn. Chúng chết. Chúng chết đói hoặc bị ăn bởi những con thú ăn thịt. Sẽ là tốt bụng và trung thực hơn nhiều nếu chúng ta tự giết chúng. Ít nhất bạn có thể làm việc đó một cách nhanh chóng.
Và nếu chúng không chết, nếu chúng có thể tìm cách sống trong hoang dã thì chúc mừng. Bạn vừa mới đưa một loài ngoại lai vào chiếm chỗ của một loài bản địa, nhiều khả năng là một loài chim sống trên mặt đất nào đó đang cố gắng hết sức để sống sót. Lợn hoang là một động vật đã được thuần hóa có khả năng phát triển mạnh trong tự nhiên, và chúng đang phá hủy hệ sinh thái ở những nơi như Hawaii. Các thực vật và động vật bản địa không có biện pháp phòng vệ nào chống lại chúng, đặc biệt là thói quen đào bới phá hoại,và cũng không có loài nào săn bắt chúng để kiểm soát số lượng của chúng.
Đây là điều mà các buổi thảo luận trên trời dưới biển của các nhà hoạt động ăn chay có vẻ đã bỏ qua. Động vật sinh sản. Và đây là bài học môn toán đi kèm với nó. Nếu bạn có 10 acre đất và 10 con bò sữa, năm sau bạn sẽ có 20 con bò, gấp đôi số lượng mà mảnh đất của bạn có thể nuôi. Giả sử một nửa số bê là con đực, bạn có 15 con cái và 5 con đực. Năm sau nữa, bạn sẽ có 35 con bò, 3,5 lần khả năng nuôi dưỡng của mảnh đất. Đến khi đó, đồng cỏ đã biến thành đất trọc và tất cả đều đang chết đói.
Vậy là bạn có hai vấn đề. Sẽ luôn có những con đực thừa ra. Dĩ nhiên, trên hầu hết các trang trại, đó không phải là một vấn đề, bởi vì mục đích của họ là sản xuất thực phẩm, và thịt không phải là điều gì cấm kỵ. Những người nông dân ăn cả gà trống lẫn bê đực. Nhưng sẽ có cả những con cái thừa ra nữa. Để những con bò sữa có sữa, chúng phải đẻ con mỗi năm. Một con bò sữa có quãng thời gian cho sữa khoảng 12 đến 14 năm. Điều đó nghĩa là nó sẽ có khoảng 11 con bê con. Chỉ cần một con để thay thế nó. Và 10 con còn lại? Bạn nghĩ thịt bê từ đâu mà có? Đó là lý do tôi là người ăn thuần chay, chứ không phải chỉ ăn chay. Đó là lý do những người ăn thuần chay gọi sữa là "thịt lỏng." Và tôi không thể kể hết con số những người ăn chay không chịu tin tôi. Đơn giản, kiên quyết, từ chối không muốn tin.
"Đi mà hỏi một người nuôi bò sữa" là nỗ lực cuối cùng của tôi.
Nhưng dĩ nhiên, họ chẳng biết ai.
~ ~ ~ ~ ~ ~
Tôi đã từng đến những trang trại thăng bằng trong trò chơi đu dây giữa ăn thuần chay và canh tác bền vững. Họ đều có gia cầm: gà, vịt, ngỗng. "Đấy là một sự thỏa hiệp," tất cả bọn họ đều nói, luôn luôn với vẻ phòng thủ. Những người khách thăm khác bối rối. Thỏa hiệp? Chẳng phải gà sống trong trang trại hay sao? Và chẳng phải các trang trại cần gà hay sao? Nó chỉ là một sự thỏa hiệp khi bạn cố gắng áp đặt tư tưởng đạo đức ăn chay lên trên sự thật sinh học về đất đai và vòng tròn dinh dưỡng. Chính những sự thật ấy đã mang lại cho những người ăn chay "Trang Trại Kinh Hoàng" và những cái cây kêu gào được cho ăn!
Tôi nghỉ hai ngày cuối tuần tại một trong những cái trang trại ấy cho một cuộc hội thảo về phục hồi nền kinh tế địa phương. Nó ở phía bắc bang New York. Chỉ dẫn đường đến đó gần như là "lái xe đến Canada, rồi quay lại." Ở đó lạnh ngay cả trong tháng 8. Họ nói họ ăn thuần chay và họ nói họ thực hiện canh tác bền vững. Những gì tôi thấy là một thứ lai tạo không thoải mái, và giống như mọi thứ lai tạo, nó không có sức sống. Họ có rất nhiều luống vườn canh tác lâu năm, đầy cây lấy quả, cây leo, và cây bụi mọc trong lớp mùn dày và được quây kín. "Không bước lên luống," các biển báo mọc ở khắp nơi.
"Xin đừng bước lên luống," Doug nhắc lại, một người đàn ông hốc hác đến mức lần đầu tiên gặp anh ta, trái tim tôi rớm máu vì sự thương cảm. Ung thư - hóa trị - ôi lạy chúa, là suy nghĩ đầu tiên của tôi. Nhưng anh ta không phải đang chết. Anh ta chỉ không ăn. Những người học việc - trẻ tuổi, nghiêm túc, tận tâm - trông cũng tệ như vậy. Một số người trong số họ có cái đường cong chữ C có thể nhận rõ trong tư thế đứng của họ. Cơ bắp của họ bị tiêu đi nhiều đến mức không còn đứng thẳng được. Một số có cái nhìn lờ đờ ở mọi lúc; nó không phải do ma túy, vì ở đây không có ma túy, vậy nên tôi phải kết luận đó là do tình trạng đói, suy dinh dưỡng kinh niên. Có phải tôi là người duy nhất nhận ra điều đó không? Có phải tất cả mọi người khác đều quá quen đến mức không còn nhìn thấy những bộ xương ấy không?
"Chúng tôi là một trang trại canh tác bền vững," anh ta giải thích. "Chúng tôi không cày hay xới đất.Chúng tôi bồi đắp đất bằng mùn, và ngoại trừ một số cây rau ngắn ngày, tất cả những cây khác là lâu năm."
Mọi thứ đến đây đều tốt cả.
Lê châu Á, quả lý gai, kiwi, việt quất. Tất cả đều là những thứ tốt lành, nhưng con người không thể sống chỉ bằng trái cây. Họ ăn cái gì?
Ở phía sau là những con gà.
"Tôi cần chúng để diệt sâu bọ và dọn quang luống vườn," anh ta nói với vẻ tội lỗi. Về lý thuyết là vậy. Trên thực tế, những con gia cầm ở trong một khu được rào bằng lưới, và trong khi chúng có khoảng không gian khá rộng và một cái chuồng đẹp đẽ, chắc chắn, chúng đã bới trơ cả đất ra từ lâu. Không cỏ, không sâu bọ: chúng ăn cái gì?
Hoạt động kinh tế chính của trang trại là những cái cây. "Cây là những gì chúng tôi có," anh ta bào chữa. "Hãy nhìn mảnh đất này. Thấy độ dốc của nó không? Thấy lớp đất không? Chúng tôi phải khó khăn lắm mới trồng được salad." Vậy là họ khai thác gỗ và làm sản phẩm gỗ theo cách bền vững. Và điều đó nghĩa là phải có một cặp ngựa. Thêm những lời xin lỗi nữa. Không như những chiếc máy kéo, ngựa không đòi hỏi nhiên liệu hóa thạch, không cần xưởng thép hay mỏ khai khoáng, cũng như không cần khoản nợ nào từ ngân hàng. Chúng có thể tự chữa lành, và chúng sinh con.Nhưng chúng ăn gì?
Đi quá chuồng ngựa là mấy acre đất đã được đốn quang. Hai con lợn và hai con dê ở đó, cuối cùng, đang ăn.
"Chúng tôi cần những con vật này để dọn quang khoảng đất này cho chúng tôi," Doug van nài.
Những con dê là dê cái, nhưng anh ta nói ngay rằng anh sẽ không cho chúng đẻ. Tôi có thể thấy chúng là giống dê lấy sữa, tương đương với những con bò sữa Jersey trong thế giới của dê. Họ đang làm những thứ kỳ quái gì thế này? Những cuộc ngã giá về đạo đức chống lại sự thật của cuộc sống? Bởi vì cuộc sống sẽ không thay đổi theo sự mặc cả của Doug.
Mảnh đất đang được phát quang để tạo ra đồng cỏ cho lũ ngựa. Hiện giờ họ phải mua cỏ khô từ một trang trại khác. Được rồi, một vấn đề được giải quyết: lũ ngựa sẽ có cái ăn.
Thế rồi chiêng báo giờ ăn vang lên, một tiếng coong vang vọng khắp cả vùng sườn núi. Quang cảnh thật đẹp, những ngọn đồi với màu xanh của mùa hè, phủ bởi ánh nắng ấm áp. 50 con người xếp hàng bên ngoài phòng ăn, bụng đói ngấu. Những gì chúng tôi ăn là bánh mì và rau xà lách.
Chúng tôi lặp lại bữa ăn này 6 lần trong 48 giờ tiếp theo.Bữa sáng chủ yếu là bánh bột rán, mặc dù nó có kèm một thìa trứng cho những người kém phát triển hơn, đưa ra với một vẻ mặt thương hại và tự mãn. "Không trứng, không sữa!" tấm biển phía trên đĩa bánh bột rán hùng hồn tuyên bố. Được thôi. Đã bao nhiêu lần trong bao nhiêu năm tôi phải gặm những bữa ăn tuyệt hảo như vậy? Bữa trưa là bánh mì và salad. Bữa chiều là bánh mì nướng với sữa đậu nành và món súp rau hợp với những cuốn tiểu thuyết của Dickens trong sự nghèo nàn của nó - và làm ơn, thưa ngài, tôi không muốn lấy thêm nữa. Chủ nhật là bữa sáng bánh mì và bữa trưa bánh mì. Họ tự hào về thứ bánh mì này, nướng trong cái lò làm từ gạch làm thủ công,Doug giải thích, và được đốt bằng củi mà họ tự kiếm. Thật là đáng khen ngợi. Việc hỗ trợ sự sống bắt đầu với câu hỏi này: Làm thế nào tôi có thể sống ở đây mà không làm hại mảnh đất này? Làm thế nào tôi có thể lấy cái tôi cần mà không hủy diệt?
Nhưng bản thân thực phẩm? Câu hỏi này va vào bức tường ý thực hệ, và ý thức hệ có thể tạo ra một bức tường rất lớn, như thành phố Berlin có thể chứng nhận. Những người ở đây tận tụy với lớp đất màu đến nỗi họ bỏ đi 5 hecta vườn cây ngắn ngày. Họ hiểu nguyên tắc phải đi theo khuôn mẫu của tự nhiên: đất phải được che phủ tất cả mọi lúc trong một chế độ đa canh lâu năm và với lớp mùn vĩnh cửu. Nhưng cơ sở chế độ ăn của họ lại là bột mì và đậu tương,những thứ ngũ cốc ngắn ngày trồng từ lớp đất màu cuối cùng cùng một đồng cỏ đang bị hủy diệt nào đó cách đây 2000 dặm. Trang trại này nằm cạnh Sông Mississippi và Hồ Ogallala.
Trở ngại duy nhất trên con đường đi đến sự bền vững thực sự là chế độ ăn chay của họ. Bởi vì họ có thể dễ dàng tự cung cấp về mặt thực phẩm. Những con dê và lợn đã có sẵn ở đây, đã ăn những thứ mọc ở vùng phía bắc bang New York này. Nếu họ nhân giống những con dê và lợn, và cho lũ gia cầm sinh sôi, họ sẽ có nguồn cung cấp thịt, sữa, và trứng từ giờ cho đến khi mặt trời tắt lụi. Thay vào đó, hầu như không có protein trên bàn ăn, hay trong những con người ở đây. Chất béo là thứ được tùy chọn. Bơ(một sự nhượng bộ, tôi chắc chắn là vậy, nhưng lựa chọn còn lại là dầu ăn hydro hóa) được mua từ Wisconsin, hữu cơ, nhưng thật là điên rồ khi chỉ cách 300 mét là hai động vật có vú, no đủ, sẵn sàng để cho sữa. Cũng có dầu olive cho salad. Chắc chắn rồi, vùng biên giới Canadian là một vùng nổi tiếng về những cây olive của họ.
Thế còn salad? Ít nhất là rau xà lách được trồng tại trang trại, bón bởi phân gia cầm, mặc dù những con gia cầm cũng sống dựa vào xác của các đồng cỏ (chỉ ngũ cốc). Những con gia cầm hầu như ăn hoàn toàn ngũ cốc,thỉnh thoảng được bổ sung chút cỏ hay thức ăn thừa ném qua hàng rào.Mục đích của những con gia cầm này vẫn là một điều bí ẩn, nuôi chúng chẳng có tác dụng gì. Chúng không được đi ra ngoài ăn cỏ và sâu bọ.Tất cả thức ăn cho chúng phải được mua từ ngoài. Không ai chịu thừa nhận họ muốn ăn trứng của chúng, và trứng của những con gia cầm ăn một chế độ ăn trái tự nhiên như vậy cũng thiếu dinh dưỡng. Chắc chắn chúng không được nuôi để lấy thịt. Tôi là khách ở trong nhà của Doug, và tôi chỉ dám hỏi đến vậy, vậy nên đến bây giờ tôi vẫn không biết mục đích của những con gia cầm.
Salad ngày chủ nhật là một bát lớn rau cải xoăn được rắc cánh hoa sen cạn. Bạn có biết về những cơn ác mộng trong đó bạn quay trở lại tuổi thiếu niên đi học và bạn cứ phải lặp lại nó bởi vì bạn không tham gia buổi thể dục không? Và đến một lúc nào đó bạn bắt đầu nhớ ra, hượm đã! Tôi đã đi làm, có nhà cửa, có bằng tiến sĩ, và một đứa con 8 tuổi. Bạn bám víu lấy những mảnh trí nhớ về cuộc sống người lớn mà bạn đã thu thập được - họ không thể bắt tôi làm điều này - để cố gắng tỉnh dậy?
Nhìn chằm chằm xuống đĩa rau cải xoăn, tôi bừng tỉnh dậy. Họ không thể bắt tôi quay trở lại. Họ không thể bắt tôi ăn cái thứ này. Tôi đã hủy hoại cơ thể tôi đủ rồi - tuyến giáp của tôi, khớp của tôi - bằng việc ăn những thứ không thể ăn được.Trong 20 năm trời, tôi đã nhồi vào mình những thứ thực phẩm phải nói thật là kinh tởm, và tôi đã buộc mình phải thích chúng. Không một chút nào nữa. Tôi đổ đĩa salad của tôi vào thùng làm phân xanh, và tôi không quan tâm có ai nhìn thấy hay không. Và tôi vui mừng đã làm vậy. Tôi đã dứt khoát và vĩnh viễn rời khỏi cái thế giới nơi mà sự chết đói và suy dinh dưỡng ngự trị.
Và trên chuyến lái xe 8 tiếng trở về nhà? Người bạn đồng hành van nài dừng lại để ăn pizza và kem, và chúng tôi ăn thỏa thích protein cùng mỡ động vật như một mảnh đất khô hạn gặp cơn mưa đầu mùa.
Lierre Keith
The Vegetarian Myth
Dịch bởi Sott