Phàm ở đời, đã là con người, sống đời bình dị, nguyên nghĩa sống đời, thì tất không thể tránh được hành sự đời, mà có hành có làm, thì có đúng sai, hay dở, thất bại, thành công.
Lại nữa, đã là con người, trước tiên thì phải có xác thân, với đủ ô trược của xác thân, rồi xác thân ô trược, làm cho linh hồn ô trược; vậy rồi cứ trượt mãi, không thấy về, không về được.
Nay đã có 7 Nhân, 7 Quả, 7 Diệt, 7 Thoát (7 Lý Luyện Tu) - nhưng Ta chưa dạy về cách nhìn nhận mình và mọi sự thế nào. Làm sao cho Tinh Tấn Linh hồn mình, mà không phạm sai lầm, tránh bớt được sai lầm, ấy là rất quan trọng, vì mỗi lần sai, là một lần gánh nghiệp, lại phải gánh, sám hối, sửa chữa-nhưng sai lầm ít thì tốt hơn!
Đây là 8 Bí phép cho mỗi người tại trần. Muốn thực hiện được 7 Nhân, 7 Quả, 7 Diệt, 7 Thoát, thì phải thực hành Tám Phép Tinh tấn này mới được, coi đó là Phương tiện để chở 7 Lý Luyện Tu trên. Ví rằng, 7 Lý Luyện tu như cái bảng, thì 8 Phép Tinh tấn như cái thước chỉ vậy.
* * *
-Đối với bản thân mình-tức là nhìn nhận cái bản lai diện mục của mình-soi vào mình-thì theo 8 Điều qui sau: Thực-Cực-Chính-Dung-Hợp-Dùng-Kiên-Tịnh.
1-Thực:
-Nhìn thẳng vào mình, đánh giá thực chất điểm tốt, xấu, hay, dở của bản thân mình-nhìn đúng cái Bản ngã của mình có cái gì, chớ né tránh, chớ bảo thủ, bao biện cho chính mình. Phải đánh giá được Thống nhất-Toàn diện các điểm. Đánh giá chúng trong mối liên hệ lẫn nhau, cùng tồn tại, cùng ảnh hưởng nhau; bản chất của sự ảnh hưởng-tồn tại của chúng là gì? Tức là đi tìm Nguyên nhân của sự tồn tại đó. Không thấy được nguyên nhân, thì không tiến hóa được.
( Phép này là soi bản thể mình, như soi gương, trắng đen, xấu tốt phải nhìn thấy được; nếu không thấy được, thì soi ra ngoài, rồi soi lại mình, hoặc tự mình hình dung mình là người khác nhìn vào mình mà đánh giá-tức là khách quan đánh giá-sẽ thấy cái của mình, nó giống ai, khác ai cái gì-phép này áp dụng Nguyên lý Sự thống nhất của Vũ trụ-sự vật hiện tượng).
2-Cực:
-Trong các điểm tốt, xấu, hay, dở do mình đã nhìn thấy, thì hãy đánh giá chúng, đến mức nào-tức cực điểm nhỏ nhất, cao nhất của một cái tốt, hoặc xấu-từ đó đánh giá được tình trạng, tính chất, và mức độ của sự việc, tính cách đó. Phải đánh giá đượcCụ thể-Triệt để từng điểm.
( Phép này cốt để thấy mình đang đứng ở chỗ nào trong nấc thang tiến hóa, trong có có đạo đức, nhân cách, tu luyện, lao động, cống hiến…).
3-Chính:
-Tìm điểm chính quan trọng nhất của cái tốt nhất và cái xấu nhất-tức là hai điểm cực đối nghịch nhau cơ bản nhất của một vấn đề-hoặc tổng thể tình trạng-hoặc tổng thể sự tồn tại. Các phần nhỏ khác, bị chi phối ở hai điểm này, sẽ bị ảnh hưởng theo hướng tốt, hoặc xấu theo. Phải phân được ranh giới giữa chúng.
( Phép này ứng dụng nguyên lý Âm-Dương-hai cực, để tìm ra bản chất-mâu thuẫn quan trọng-chủ yếu-bản chất thực của sự vật hiện tượng-từ đó điều chỉnh).
4-Dung:
-Tìm cách Dung hòa các điểm-tức là tìm được sự tất yếu tồn tại của chúng và nhìn chúng với cách nhìn giản dị-bình hòa-tránh cực đoan. Phải sám hối các tính xấu-sửa các điểm kém thường xuyên; đây cũng là phép cân bằng Tương đối, để cân bằng trạng thái, mức năng lượng, nghiệp…
( Phép này ứng dụng Phép này ứng dụng qui luật Âm-Dương cùng tồn tại các mặt, thống nhất các mặt mâu thuẫn…để dung hòa chúng, coi chúng là sự đan xen, liên hệ, cảm ứng lẫn nhau-đây loại bỏ tính cực đoan, nóng vội, tùy tiện, chủ quan, duy ý chí, cảm tính, đơn giản, máy móc một chiều…Phép này tránh cho ta cái nhìn phiến diện, chủ quan, một chiều, gây sự ác ý, ác tâm, hoặc thù nghịch, thành kiến. Đem lại cho chúng ta sự hòa hợp, đoàn kết, tôn trọng cả cái xấu, cái hư, dốt, lạc hậu, kém phát triển. Không mất bình tĩnh, nóng vội, gây nghiệp xấu.
Đó là cái nhìn Trung Dung. Trên cao nhìn xuống, đứng ngoài nhìn vào, ở giữa nhìn ra xung quanh, an nhiên tĩnh trí để nhìn bao quát, có chiều sâu, có chiều rộng, toàn diện, là chính nó của các mặt, lại là Trung tính sau đó, mới có thể hòa hợp được. Có được phép này, thì hầu như không thấy ghét cái gì, dù cái đó rất là hại, rất là xấu-vì thấy được cái tồn tại của nó và chúng ta nhìn thấy được sự Dung hòa trong đó).
5-Hợp:
-Thấy cái Hợp lý để cho sự yên ổn, hoặc thúc đẩy tiến bộ.
-Cái hợp lý là gì? Đó là cái điều hợp qui luật tiến hóa, thậm chí tạm thời có thể là cả biện pháp xấu, cực đoan-nhưng nó lại là cần thiết cho sự của mình-nếu không có nó thì mình hỏng luôn-chứ đừng nói đến tồn tại để học ở trường đời nữa! Nó là mặt tối-phía bên kia của Tiến hóa chính-nhưng nó lại là điều kiện để cho sự tiến hóa được bảo đảm…Cái gì thấy hợp lý thì phải dùng.
( Ví dụ? Rất nhiều-sinh hoạt tình dục có thể gây nghiệp, cản trở thoát Luân hồi-nhưng là yếu tố sinh lý rất quan trọng, nếu không có thì không có con, không có loài người-không có hạnh phúc gia đình-mà đã chấp nhận đời-đạo, thì phải có gia đình, nếu mất hạnh phúc, ngoại tình, loạn đời…
Hoặc: Ăn mặn. Người đang rất gầy yếu, ốm bệnh, cần bồi bổ, hoặc trẻ em đang lớn, không thể cho nó ăn chay trường được, nếu không thì chết, chả còn ở trần mà tiến hóa đến đích cuối nữa, thế thì phải ăn mặn, cho đến khi nào thích hợp thì ăn chay.
Tính xấu như nóng giận, nó là kém, biết là thế, nhưng do Trời sinh ra mình, có sao chiếu nóng tính, khó sửa, thuộc về tính cách bẩm sinh-biết thế, nếu bỏ ngay, thì rất khó, vì phải nín nhịn, ậm ực, rồi tím lịm hận trong đầu, hoặc lại ra chặt phá cây cho hả giận…Vậy thì tạm chấp nhận nó, rồi sửa dần; lấy cái tốt, như tính cam chịu, chịu khó làm việc, tính chịu khổ…để bù lại, xâm chiếm tính nóng-vì cái tính chịu khó, vốn là do nhẫn nhịn chịu đựng mà có, thế thì nhân nó lên, lấn sang cái tính nóng, sẽ có lúc chế được nóng…
Cái nhà đang xây, nhưng nếu ta vội giật cái cột xuống ngay, cái nhà sẽ sập lập tức, trong khi ta chưa thể xây ngay một lúc cái nhà mới được. Hoặc mọi việc khác cũng thế, như văn hóa, tín ngưỡng, kinh tế…Cái nào thấy chưa thể bỏ được, bỏ ngay sẽ gây hậu quả lớn, tệ hại, gây nghiệp lớn…thì phải xem nó là cần thiết tồn tại, từ từ rồi tính).
Phép này ứng dụng qui luật Âm-Dương cùng tồn tại các mặt, thống nhất các mặt mâu thuẫn).
6-Dùng:
-Lựa dùng cái thích hợp đó. Tức là cái mình cần, cái thấy cần thiết. Có thể cả tốt và xấu.
-Nhưng theo qui luật, thì dùng cái tốt là đương nhiên; cái xấu có dùng, cũng chỉ là tạm thời. Ví dụ phân gio rất bẩn, nhưng cần dùng cho việc trồng cấy. Người cứng đầu, ta dùng vào việc cần sự mạnh mẽ, kiên trì, quyết đoán; tính nói nhiều, ta dùng vào việc nói nhiều…Biến cái xấu, thành cái tốt; hóa giải nó thành lực cớ lợi.
-Dùng cái tốt-biến nó thành động lực, cái nhân sáng, để nhân lên, lấn át cái xấu đi.
(Phép này ứng dụng Luật Nhân quả, phản phục-cái nào cần động, cái nào cần tịnh, cái nào cần lùi, bỏ, diệt, sửa. ..)
7-Kiên:
-Phải Kiên trì tiến bộ, hoàn thiện.
-Khi mình đã xác định được biện pháp rồi, tức nhận thấy cái nào cần cho mình, để mình tiến hóa, thì dùng, dùng thì phải kiên trì, nhưng dùng để tiến hóa-chứ không phải để thụt lùi. Kiên trì sửa sai. Thường xuyên sám hối các tội, lỗi, yếu, hạn chế. Sám hối rồi, thì phải kiên trì-kiên tâm-kiên quyết sửa chữa; cứ như thế, không ngừng, cho đến khi hoàn thiện.
* Trong Kiên, sử dụng 8 phép nhỏ-gọi là Tám phép độ thân là: Tách-Chiếu-Nhẫn-Thái-Phải-Cải-Hòa-Công.
-Tách: Bóc tách các nội dung, các phần của một sự vật, vấn đề ra, để mổ xẻ chúng. Trong các vấn đề lớn, sự vật, hiện tượng, tính cách, bệnh tật..thì bóc cho được nó ra cho thấy nội hàm của nó, có bóc nó ra, mới diệt được nó-đây không phải là lúc dung hòa nữa-đã qua giai đoạn dung hòa.
-Chiếu: Dùng cái sáng, cái hay, cái tốt, cái chung chiếu nó, biến hóa nó, làm biến dị nó đi, cho không là nó nữa. Dùng dư luận cải hóa nó-chiếu yêu-soi nó, để cải hóa, nhưng là chiếu sáng, bằng năng lượng cao hơn.
-Nhẫn: Là nhẫn nhịn, kiên nhẫn, nhẫn nại. Trong Kiên phải có Nhẫn. Nhẫn nại mà thực hành.
-Thái: Là thái bình. Trong mọi hành động, cho mình, cho người, lấy Thái bình-tức là an bình, an vui, hòa bình làm đầu tiên. Tức là không gây hậu quả xấu.
-Phải: Là Đường chân chính, đường đúng, biện pháp đúng-cứ theo đường này mà làm, thì không sợ lạc lối.
-Cải: Là cải tạo rõ ràng. Trên là Chiếu sáng, cũng đã là cải hóa rồi, nhưng có khi chưa thành việc, thành sự, thì Cải này phải thành sự, nghiêm túc, cho được, thành quả tốt rõ ràng.
-Hòa:-là Hòa đồng. Thành cái tốt rồi, đôi khi mắc vào việc kỳ thị, khinh miệt, hoặc đối đầu luôn với cái cũ, cái xấu, cái chống mình; cho nên lại gây ra Nghiệp tiếp. Vậy phải hòa đồng với tất cả-hòa đồng nhưng không đánh mất mình, hòa hợp nhưng không mất bản sắc riêng, hòa vui nhưng không sa vào huyễn loạn.
-Công: Là công quả, công trình. Làm gì cũng phải nghĩ đến công quả, công trình-tiến hóa chung, không vị tư ích kỷ mới là đắc phúc, đạo. Anh tiến hóa, tiến bộ rồi, tức anh đã có thể tiến hành phổ độ, mà anh không phổ độ, không chịu vị nhân, cống hiến, thì cũng chỉ được cho riêng anh thôi-tức là mới có Công phu, chưa có Công quả, Công trình.
( Phép này ứng dụng qui luật Nhân quả, Phản hồi, Phản lực-liên tục để chuyển hóa sự vật hiện tượng. Trong Kiên này, diễn ra vô cùng sinh động, đa dạng, lâu dài các quá trình, các giai đoạn, các hành động, các hệ quả…thành trụ-dị-hoại-diệt-sinh…theo nấc thang tiến hóa, hành hóa).
8-Tịnh
-Tịnh là Tịnh không.
-Tìm cách Trung hòa chúng-tức là Cân bằng giá trị-năng lượng-nghiệp…Cân chúng với nhau lên, lấy cái nọ đắp-thâm nhập cái kia-xem còn chỗ nào mà không bù trừ cho nhau được, không xâm chiếm nhau được. Cái phần dôi ra-tức là Mâu thuẫn chưa thể hóa giải được. Lại tìm cách đưa chúng vào để trung hòa tiếp, cho đến hết, cân bằng thì thôi.
-Tịnh lọc lại mọi việc, cho Tịnh-về Không. Thiền Tịnh. Việc này đắc An nhiên-Tự tại-Vô hại-Vô Nhiễm sự. Đắc Đạo.
( Phép này cốt đưa mình về trạng thái trung tính, trung cung, bỏ Huyễn ngã, chấp ngã hoàn toàn -trong tịnh thiền, luyện khí, phong thủy, hay bất cứ việc gì cũng thế-phải tìm cách đưa mình về trạng thái Trung tính-Trung hòa-Trung cung-Trung Phương tính trạng=Không. Nếu chưa làm được điều này, thì tất còn nghiêng lệch, mà nghiêng lệch, tất có nhân-quả-nghiệp, dù tốt-xấu. Ở trang thái Trung Phương, thì mới đắc đạo cho mọi sự vật, hiện tượng, con người-vì đó là Thượng đế Cung-Thượng đế Tính).
Trong mọi vấn đề nói chung của con người tại trần gian, đều phải ứng dụng và có thể ứng dụng rộng 8 Phép này ra cho muôn sự khác đều được.