QUẦN – TIÊN – HỘI LÀ GÌ?

Quần – Tiên – Hội tức là Thiên Đình

 Không nhờ Quần Tiên Hội giúp đỡ, thì nhân loại ở địa cầu không tiến được một bước, mà còn thoái hóa, hung ác, tàn bạo, không biết gì nhân đạo cả.
 Từ thuở mới có nhân loại trên quả đất này, Đức Thượng Đế đã lập ra Quần Tiên Hội, gồm có Đức Ngọc Đế và Phật Thánh Tiên, từ bầu Kim Tinh (1) sang qua đây để giúp đỡ nhân loại địa cầu tiến hóa, vì địa cầu lúc bấy giờ còn trẻ trung, nhân loại hồi ấy, chưa có ai tiến hóa đến bực “Phật Thánh Tiên” để giúp cho nhân loại tiến hóa.
 Đến nay nhân loại sản xuất nhiều Đấng Siêu Nhân, để thay thế cho các Đấng đã mượn ở bầu Kim Tinh, và tiếp tục coi sóc và giúp đỡ nhân loại tiến hóa.
 Quần Tiên  Hội cũng gọi là Thiên Đình đã có từ ngàn xưa để cai trị địa cầu này. Thế mà cho tới ngày nay, rất ít ai được biết rõ Quần Tiên Hội ở đâu và đang làm gì cho nhân loại. Nay đến lúc nhân loại tiến hóa khá cao, đến lúc mà Quần Tiên Hội cần phải cho nhân loại biết đôi phần bí mật trên Thiên Đình và những giáo lý cao siêu, huyền bí mà xưa kia Quần Tiên Hội chưa dạy cho nhân loại được, nên nay Quần Tiên Hội giao cho hai Đấng Thánh Sư thuộc hàng Đại Tiên, dưới quyền điều khiển của Đức Thích Ca là Đấng chưởng quản tối cao cung thứ hai là cung đạo đức, Đức Thích Ca sai hai Đấng Thánh Sư: Đức Morya và Đức Kuthumi Đại tiên xuống trần thế lập Hội Thông Thiên Học (2) vào năm 1875 ngày 17 tháng 11 dương lịch với mục đích để dạy thêm cho nhân loại những triết lý cao siêu huyền bí và chân lý mà xưa kia Phật Thánh Tiên không thể dạy cho nhân loại hiểu được, trong lúc nhân loại hồi ấy, còn ở vào trình độ quá thấp kém, không thể hiểu nổi giáo lý cao siêu của các ngài.
 Xin thuật lại hồi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, một hôm Đức Phật từ trong rừng trở về tịnh xá tay cầm một nắm lá Simcapa, Ngài đưa lên cao, hỏi các Đệ tử: nắm lá trong tay Ta nhiều, hay là lá Simcapa ở trong rừng nhiều, Đệ tử của Phật đều trả lời: Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Ngài rất ít, lá trong rừng rất nhiều.
 Đức Phật liền nói: “Đúng như thế những điều mà ta đã giác ngộ (hiểu biết) quả thật nhiều như lá trong rừng kia, còn những điều mà Ta đã dạy cho các con hiểu được rất ít như nắm lá trong tay Ta!”
  Thế thì rõ rệt, Đức Thế Tôn không dạy gì được nhiều trong khi trình độ nhân loại hồi ấy (2.500 năm trước) còn quá thấp kém (1)
Nay xuyên qua Quần Tiên Hội và Hội Thông Thiên Học, Đức Chưởng quản tối cao cung thứ hai (Le rayon) là cung Đạo đức, tức là Đức Phật Thích Ca dạy cho chúng ta một giáo lý mới, thuộc về khoa huyền bí, (hình nhi thượng học = Science métaphysique) để bổ túc vào những giáo lý, chân lý, của các giáo chủ thời xưa, cho phù hợp với trình độ tiến hóa hiện nay, hé cho nhân loại biết thêm một phần huyền bí ẩn vi của vũ trụ và con người mà khoa học đời nay chưa thấu đáo nổi.
 Chú thich:
 Chú thích: (1) Nhìn lại gần đây, cách chừng 500 năm ông bà tổ tiên chúng ta tiến hóa đến bậc nào, thật sự còn quá thấp kém, tối tâm không làm sao hiểu nổi giáo lý cao siêu, huyền bí của Phật Thánh Tiên nó khó hiểu hơn những gì khoa học đã tìm được.
Cách đây lối 300 năm về trước, trình độ nhân loại tiến hóa cũng vẫn còn rất thấp, ai biết được và nói trái đất tròn thì bị mang tội khi quân, gạt nhà vua và bị chém chết. Ngày nay nhân loại tiến hóa khá cao, đứa con nít có học cũng biết rõ trái đất tròn như viên bi.
______________________________

Các Đấng siêu Phàm trong Quần Tiên Hội xin kể dưới đây :
Đứng đầu (chúa tể) Quần Tiên Hội là Đức Ngọc Đế (9 lần điểm đạo) Ngài thay mặt Đức Thái Dương Thượng Đế (Logos Solaire) vừa cai quản Quần Tiên Hội, vừa Chúa Tể vừa coi sóc sự tiến hóa cho muôn loài vạn vật, nhân loại và thiên thần trên đia cầu này. Ngài từ bầu Kim Tinh sang đây, cách nay lối 16 triệu năm, với ba vị đệ tử của Ngài là ba vị Độc Giác Phật (Pratyeka Bouddha) và 30 Vị Đại Tiên với một số nhân loại tiến hóa cao (1).
Kế đó là Đức Phật Thích Ca (được 8 lần điểm đạo).
Ngài Chưởng Quản tối cao về cung thứ hai, là cung đạo đức hay là giáo dục, tất cả tôn giáo, đạo đức và giáo dục đều dưới sự chăm nom coi sóc của Ngài. (Hiện nay Ngài ngự tại cõi Niết Bàn).

 Chú thích :
(1)Xin nói một đoạn dã sử nói về Đức Ngọc Đế, khi Ngài ngự xuống quả địa cầu cách đây lối 16 trệu năm.
“ Theo tiếng nhạc vang động trên mấy tầng mây, chiếc xe loan của những vị Đại Thánh của bầu kim tinh, từ trên cõi không gian huyền diệu bay mau lẹ vượt qua những khoảng trống không trung, nhấp nhoáng những ánh hào quang như muôn ngàn tia tửa chói sáng cả bốn phương trời. Khi đến quả địa cầu xe ngừng lại bay lượn trên Bạch Đảo (Ile Blanche) hiện nay là Bạch Ngọc Kinh chứa đầy cỏ cây vô cùng xinh đẹp, bông hoa đua nở, ngàn hồng muôn tía đượm sắc xinh tươi, vui cười huyền bí. Ấy là bửu vật vô giá, xinh đẹp hơn hết của địa cầu, phụng hiến cho đức vua của nó Đức Sunat Kamura, tức là Đức Ngọc Đế, Đấng trường sanh bất lão.
Chỗ Đức Ngọc Đế ngự gọi là Thiên Đình ở tại Ốc Đảo (Oasis) trong sa mạc Gobi thuộc Á Châu, thiên đình vốn là một trung tâm thanh khí nên mắt phàm không thấy được, và kẻ phàm tục không đến đó được, vì chỗ ấy được bảo vệ bởi một mảnh lực phi thường. Thiên Đình có nhiều tên khác nhau: Shamballa,Agartha, một địa linh bất diệt mà chúng ta gọi là Bạch Ngọc Kính.
Đúng 7 năm một lần Đức Ngọc Đế chủ tọa nơi Bạch Ngọc Kính. Một cuộc lễ long trọng phi thường. Các Tiên Thánh và một số đệ tử điểm đạo được mời đến và nhờ đó mấy vị này được yết kiến Đấng Chúa Tể Uy Nghiêm của mình. Ngày thường Đức Ngọc Đế chỉ liên lạc với các Tiên Thánh trong Quần Tiên Hội mà thôi. Ngài không có xác thịt như người phàm. Xác thể của Ngài do ý chí của Ngài tạo bằng chất khí rút ở bầu kim tinh thân hình Ngài hoạt động như xác của con người, nhưng không hề hư hại. Tác của Đức Ngọc Đế như thanh niên 16 tuổi, uy nghiêm lẫm liệt đại từ, đại bi, hồng oai, hồng thiện. Hào quang Ngài chiếu sáng như vầng thái dương, bao trùm khắp cả địa cầu, những đệ tử được điểm đạo đến lần thứ ba A na hàm mới được dắt dẫn đến trước mật Ngài, đều kính sợ, cúi mọp không dám ngó lên, vì chịu không nỗi ánh sáng chói lòa của hào quang Ngài chiếu hiện ra.

Dưới Đức Phật Thích Ca là Tam Thanh : tức là hai vị Đại Thánh và một vị Bồ Tát được 7 lần điểm đạo.
1) Đức Di Lạc Bồ Tát (Seigneur Maitreya “Bodhisattva’’) (a) thay thế Đức Thích Ca, để trực tiếp với nhân loại ở trần gian, về tôn giáo, đạo đức và giáo dục. (Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn).
2) Đức Bàn Cổ Vaivasvata Manou, thay thế Đức Ngọc Đế, để trực tiếp với trần gian. Ngài Chưởng quản tối cao thứ nhất, tức là cung hành chánh hay là chánh trị (b). Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn.
3) Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan)= Seigneurde la Civilisation, Ngài coi sóc sự tiến bộ của nhân loại, mở mang về văn minh. Ngài chỉ huy và coi sóc sự hoạt động của Tiên Thánh trong Quần Tiên Hội và cai quản 5 cung từ cung thứ 3 đến cung thứ 7, (Đức Văn Minh Đại Đế vẫn còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn).
Dưới Tam Thanh, có 7 Đấng Thánh Sư hay là Đức Thầy toàn là Đại Tiên, tiếng phạn gọi là Chohan được 6 lần điểm đạo, có nhiệm vụ coi sóc 7 cung và thâu nhận đệ tử phàm tục.

Chú thích :
(a)Tiền kiếp Đức Di Lạc Bồ Tát là Đức Krishna lâm phàm dạy đạo tại Ấn Độ và còn lâm phàm trong 3 năm, mượn xác của đệ tử Ngài
(b)Những nhà làm chánh trị không vì danh,vì lợi, hy sinh đời mình để phụng sự quốc gia và là những người đang đi trên đường Thánh đạo nếu lòng hy sinh càng trong sạch và cao cả, sẽ được đắc Thánh như trường hợp của Thánh Gandhi của Ấn Độ, Bà nữ Thánh Jeanne d’Arc ở Pháp, Ngài Quan Vân Trường tức là Quan Thánh Đế Quân một vị tướng trung cang nghĩa khí của nước Trung Hoa. Nếu sau này còn hy sinh cao cả hơn nữa, sẽ được thành Chơn Tiên thành Đại Tiên, thành Đức Bàn Cổ, thành Độc Giác Phật, và cuối cùng sẽ thành một Đức Ngọc Đế. Các vị làm chánh trị, sự tiến hóa đi theo đường lối cung thứ nhất, mà Đấng tối cao của cung này là Đức Ngọc Đế, cầm quyền cai trị, tất cả địa cầu này. Ngài là chú tể, là vua của nhân loại và thiên thần của địa cầu.
Xin đừng lầm tưởng, những nhà chánh trị hy sinh cho quốc gia cho đồng bào là không phải người tu, các vị ấy hy sinh mà không cầu danh, dục lợi là tu rất cao vậy, dù phải giết muôn binh vạn tướng như Quan Thánh Đế Quân, và Bà Thánh Jeanne d’Arc để bảo vệ quốc gia thủy thổ, để bảo vệ đồng bào của các Ngài đương bị kẻ nghịch tham tàn đem quân đến tàn sát, chà đạp thì các Ngài giết chết, sự sát nhân ấy không có tội gì cả. Xưa kia chính tay của Đức Bàn Cổ đã giết rất nhiều bàng môn tả đạo đem binh đến tàn sát dân lành mà Ngài có nhiệm vụ dìu dắt bảo vệ dân ấy.
Ngài giết bàng môn tả đạo là vì lòng thương, lòng từ, cho chúng nó ng một giấc ngàn thu và trả quả ở địa ngục để rồi sẽ cho đầu thai nơi khác không tàn bạo, để giúp cho linh hồn ấy tiến hóa qua giai đoạn mới. Chừng nào chúng nó không thể dạy dỗ theo chánh đạo được và cứ nghịch mãi với luật trời tàn sát nhân loại mãi mãi chừng ấy chúng nó sẽ bị luật trời tiêu diệt.
Trái lại những nhà chánh trị, giết người với tính cách tàn ác để cầu danh thủ lợi, là những ác quỷ, ác quỷ này sau khi chết sẽ sa địa ngục, chớ không thành Thánh Nhân được. Đây là trường hợp Tần thỉ Hoàng thời xưa và Hitler thời nay đem binh tàn sát, để cầu danh lợi.
Mục đích tiến hóa cao cả của nhân loại là hy sinh đời mình để giúp đở cho kẻ khác mà không vì danh lợi
Mỗi lần hy sinh dầu nhỏ dầu lớn, là mỗi nấc thang vàng tiến hóa đưa con người đến mức giải thoát cuối cùng. Phật xưa kia chỉ tận tụy hy sinh vì Nhân loại, sự hy sinh ấy cao cả hơn hết, nên Phật được ngôi cao cả và được giải thoát.
Thánh Gandhi, Bà Nữ Thánh Jeanne d’Arc Quan Thánh Đế Quân cũng hy sinh gần như Phật, hy sinh tất cả hạnh phúc của đời mình để phụng sự quốc gia và đồng bào của các Ngài nên được đắc Thánh là phải lắm. Nếu trên xã hội này mà không có những nhà chánh trị đúng đắn cao siêu, không có những vị tướng, tá. .. cam đảm, anh hùng, coi cái chết nhẹ như mảy lông, hy sinh vì dân, vì nước, thì xã hội không có trật tự, và hỗn loạn mãi mãi không ai làm gì được cả. Vậy đường lối chánh trị vô cùng quan trọng cho sự tiến hóa của nhân loại vậy. Có biết bao nhiêu Đấng siêu nhân ngày nay được đắc quả Chơn Tiên, Đại Tiên, trong những tiền kiếp đã làm chánh trị, làm vua, làm quan, làm tướng.
Có một điều này, người đương tu,đương mặc áo nhà sư mà muốn làm chánh trị thì phải từ chức nhà sư, bước ra đời làm chánh trị công khai chớ không nên mặc áo nhà sư mà làm chánh trị, làm như thế, sái tôn chỉ, xáo trộn đường lối cung thứ hai là cung đạo đức do Đức Phật Thích Ca Chưởng Quản.
________________________________

Tôn danh của 7 Đấng Thánh Sư (Đại Tiên) xin kể dưới đây:

1: Đấng Thánh Sư Chưởng Quản cung thứ nhất là Đức Morya, nhiệm vụ chánh của ngài là coi về hành chánh (chánh trị) các nước trên địa cầu, Ngài làm việc dưới mạng lịnh của Đức Bàn Cổ Vaivasvata (Manou).
Lúc còn ở thế gian, Ngài làm Vua nước Radjpoutana ở miền bắc Ấn Độ, và hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ở tại vùng châu thổ Shigatse gần Hy Mã Lạp Sơn (1).

2: Đấng Thánh Sư Chưởng Quản cung thứ nhì là Đức Kuthumi, hồi còn ở thế gian ở kiếp sau cùng Ngài là người Ân Độ ở Cachemire. tiền kiếp của Ngài là Pythagore, lối hơn 2.500 năm trước, đồng thời với Đức Phật Thích Ca lâm phàm tại Ấn Độ thì Ngài đầu thai tại nước Hy Lạp, làm giáo chủ đạo Pythagore. Nay Ngài là Thánh Sư trong Quân Tiên Hội và làm việc trực tiếp với quyền của Đức Phật Thích Ca và Đức Di Lạc Bồ Tát, nhiệm vụ chánh của Ngài là coi sóc, chăm nom,canh tân cải tạo các tôn giáo thời xưa, cho phù hợp trình độ tiến hóa hiện nay. Do nơi Ngài mà nhiều giáo phái, hoặc tôn giáo mới lần lượt ra đời, để cải thiện... lần lần những giáo lý cũ kỹ ngày xưa đã mất chơn truyền, và bổ túc những gì mà thời xưa Phật Thánh Tiên không dạy được. Chính hội Thông Thiên Học do Ngài và Đức Thánh Sư MORYA, vâng lịnh Đức Phật Thích Ca lập ra hồi năm 1875. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại vùng châu thổ Shigatse gần Hy Mã Lạp Sơn.

3: Đức Thánh Sư chưởng quản cung thứ ba là Đức Vénitien, tiền kiếp của Ngài là hiền triết (họa sư) Paul Veronese, coi về thiên văn, Ngài làm việc trực tiếp dưới quyền Đức Văn Minh Đại Đế. Hồi còn tại thế, Ngài sanh trưởng tại thành Venise nước Ý Đại Lợi. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn.

4: Đức Thánh Sư chưởng quản cung thứ tư là Đức Sérapis, coi về Mỹ Thuật, nghề nghiệp làm kinh tế thế giới, Ngài làm việc dưới quyền của Đức Văn Minh Đại Đế. Hồi còn ở trần gian, Ngài sanh trưởng tại nước Hy Lạp. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và cũng ở tại Hy Mã Lạp Sơn.

5: Đấng Thánh Sư chưởng quản cung thứ năm là Đức Hilarion, tiền kiếp của Ngài là Thánh Saint Paul sau cùng là nhà hiền triết Jamblique của giáo phái Tân Platon. Nhiệm vụ chánh của Ngài là coi về khoa học, giúp cho nền khoa học mau phát triển, phát minh nhiều và mới lạ hơn xưa. Ngài làm việc dưới quyền của Đức Văn Minh Đại Đế. Hồi còn tại thế Ngài sanh trưởng ở kiếp chót tại nước Hy Lạp. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm của người Crétais đảo Crète và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn.

6: Đức Thánh Sư chưởng quản cung thứ sáu là Đức Jésustiền kiếp Ngài là nhà hiền triết, tiên tri Joshua. Ngài coi về tín ngưỡng (sùng tín = dévotion) (2) các tín đồ sùng tín của tất cả tôn giáo trên địa cầu. Ngài làm trực tiếp dưới quyền Đức Văn Minh Đại Đế.
Khi xưa Ngài là Đức Jésus sanh trưởng tại Nazreth, Palestine (3).

7: Đấng Thánh Sư chưởng quản cung thứ bảy là Đức “ Le Comte de St Germain”. Tiền kiếp của Ngài là nhà hiền triết Francis Balcon, nhiệm vụ chánh của Ngài là coi về pháp môn (yoga), Ngài cũng làm việc trực tiếp với Đức Văn Minh Đại Đế. Ngài vốn là người Âu, sanh trưởng tại nước Hung gia Lợi (hongrie). Năm 1758 tháng Févrie Ngài đến Paris, xin Vua Louis XV cho Ngài ngự tại Château de Chambord, không ai biết Ngài từ đâu đến. Dân Paris coi Ngài được trường sanh bất tử vì có người gặp Ngài 50 năm về trước đến khi gặp lại, không thấy Ngài già thêm một tý nào cả. Ngài có nhiệm vụ coi sóc Âu Châu. Hiện nay Ngài vẫn còn giữ xác phàm, và rày đây mai đó, lẫn lộn với người trần thế, nhưng người trần thế không bao giờ biết Ngài là ai và từ đâu đến.

Chú thích : (1) Đức Thánh sư Morya, trong những tiền kiếp có một điều rất khác thường, là không bao giờ Ngài đầu thai làm đàn bà, trong khi những linh hồn khác phải đầu thai 3 kiếp đàn ông, rồi phải đổi đầu thai 3 kiếp đàn bà để kinh nghiệm, có vài trường hợp đặc biệt, đầu thai trong 7 kiếp liên tiếp, hoặc nam, hoặc nữ rồi cũng phải đổi.

Đức Jesus là đấng giáo chủ Cơ Đốc giáo (Thiên Chúa Giáo) chủ trương pháp môn sùng tín (Dévotion) là một trong ba con đường chánh đạo, đưa con người đến nơi giải thoát, Ba con đường ấy là:

a/ Con đường thứ nhất là con đường hành động (Karma yoga ou Yoga de l’action) Người theo con đường này phải ráng diệt lòng tư kỷ bằng cách hành động, phụng sự nhân loại, không vì tư lợi. đời sống người ấy phải dồi dào, linh hoạt. Người phung sự nhân loại với một tấm lòng hy sinh, chớ không mong hưởng kết quả của việc mình làm.
b/ Con đường thứ hai là con đường trí huệ (Jnana Yoga ou Yoga de connaissance) tức là hiệp nhất với Thượng Đế bằng cách mở mang trí thức thiêng liêng (trí huệ). Người theo con đường này phải nhận định Đức Thượng Đế ẩn tàng trong tất cả muôn loài vạn vật. Tất cả là Ngài, Ngài là tất cả.
c/ Con đường thứ ba là con đường sùng tín (tín ngưỡng) (Bhati Yoga ou de la Dévotion) con đường này do Đức Jesus chưởng quản. Mở mang tín ngưỡng, tin tưởng mạnh mẽ, trọn vẹn Đức Giáo chủ nào mà mình sùng bái, hoặc Phật, hoặc Chúa, hoặc Đức Thựơng Đế, và mở rộng lòng nhân, lòng từ để giúp đời, cứu nhân độ thế noi theo Đức giáo chủ của mình

(3) Vài kiếp lâm phàm của Đức chúa Jesus
Lúc đầu thai tại Palestine, Đức Jesus còn ở cấp bậc La Hán (Arhat) chớ chưa được giải thoát. Vì muốn được giải thoát sớm hơn, Ngài cầu xin sư phụ Ngài là Đấng Christ tức là Đức Di Lạc Bồ Tát của người Á Đông (Việt Nam), Đấng Christ, thấy căn quả Đức Jesus đã gần chín mùi nên Ngài bằng lòng cho Đức Jesus nhồi quả, tức là cho chúa Jesus trả quả lần chót, lần cuối cùng cho thật nặng, vô cùng đau khổ, trả cho hết sạch những căn quả của tiền kiếp gây ra và còn lại, để được giải thoát kiếp làm người Đức Christ cho phép, nên Đức Jesus phải chịu chết hết sức đau khổ, bị đóng đinh trên thánh giá và bị đâm nơi quả tim. Sự trả quả vô cùng rùng rợn, đau khổ này là Đức Jesus trả những quả tiền kiếp của Ngài đã gây ra tội. Chớ không phải Ngài chịu chết đau khổ để gánh tội cho nhân loại như kinh sách đã nói. Theo luật Thiên Đình, không ai có quyền gánh tội cho ai cả, ai có vay thì phải trả, ai trước kia làm tội thì nay hoặc sau này phải trả quả. Nếu chúa Jesus có quyền gánh được tội cho nhân loại, thì nhân loại đã hết tội rồi. Trái lại nhân loại vẫn còn tội lỗi, vì còn biết bao nhiêu người còn đau khổ và còn biết bao nhiêu linh hồn hung ác, phải sa địa ngục.
Nếu Đức Jesus không xin nhồi quả, thì Đấng Christ đã cứu Ngài và đem đi mất không ai giết được. Xin lưu ý: Đức Christ và Đức Jesus, không phải là một, mà hai vị khác nhau. Thầy với trò, ba năm chót, trước khi Chúa Jesus chết thì Đức Christ tức là Đức Di Lạc Bồ Tát mượn xác của Đức Jesus để giảng đạo và làm nhiều phép lạ. Chính Đức Christ làm phép lạ chớ không phải Đức Jesus. Cách thức mượn xác: Hồn của Đức Jesus xuất ra khỏi xác, hồn Đấng Christ nhập vào và hành động hoặc dạy đạo hoặc làm phép lạ, khi làm xong, hồn Đấng Christ xuất ra trả xác lại cho Đức Jesus nhập vào trở lại...Chừng có chuyện phải làm thì mới mượn xác rồi trả lại chớ không phải mượn luôn cả ngày hoặc trọn cả ba năm.
Chúng tôi được biết là do Quần tiên hội tiết lộ ra và những đàn anh cao cấp Thông thiên học thường được dự hội Quần Tiên, thấy rõ chúa Jesus ngồi một bên mà Đấng Christ một bên, khác nhau. Nhờ nhồi quả, trả quả hết sạch lần chót ở Palestine; qua kiếp sau kế đó Đức Jesus đầu thai lại tại nước Hy Lạp lấy tên là Apollonius de Tyane. Ở kiếp này Đức Jesus đắc quả Chơn Tiên (ASEKA), tức là đã được giải thoát, không còn làm người nữa, và không bao giờ còn bị ai giết được nữa, và trường sanh bất tử. Trừ ra trường hợp Ngài thấy cái thể xác ấy, bất tiện cho Ngài muốn làm một việc gì, Ngài phải bỏ cho nó chết, để lấy thể xác khác. Như trường hợp Ngài muốn giúp dân Ấn Độ ở miền Nam tiến hóa, Ngài phải bỏ xác thể Apollonius de Tyane, để thể xác của người Ấn Độ ở miền Nam tên là Ramanujacharya, để cải cách Tôn giáo ở miền nam Ân Độ hồi thế kỷ thứ II. Ngài đưa ra, (dạy) một giáo lý cao siêu hơn. Làm cho dân chúng miền nam Ấn Độ không hiểu gì cả, nó cho Ngài là tà đạo, đến để phá đạo chúng nó, nên chúng nó định giết Ngài, Ngài biết trước và đi mất cho đến ngày nay không ai biết Ngài đi đâu; để lại một ngôi nhà mà năm 1959 và 1960 khi tôi (Nguyễn văn Lượng) học đạo tại Ấn Độ, được Đức Hodson, một vị có Thần nhãn dắt tôi và nhiều bạn đạo đến nhà ấy, và cho chúng tôi biết, đây là nhà của Đức Jesus đầu thai hồi thế kỷ thứ II, bị dân chúng kéo đến giết, nhưng Ngài đã thành Chơn Tiên rồi không ai giết được Ngài. Cái nhà tôi được thấy chỉ còn bốn vách tường, không còn nóc. Cách ngôi nhà 50 thước, còn một cái giếng hồi thuở xưa, Chúa Jesus vì quá thương hại nhân loại, muốn đem chân lý giúp nhân loại mà hai lần Ngài bị giết (một lần tại Palestine và lần sau cùng tại miền Nam Ấn Độ)
Sau cùng Đức Jesus bỏ xác người Ấn Độ tên Ramanuyacharya, và hiện nay Đức Jesus vẫn còn ở tại cõi trần này, lấy xác của người ở xứ Syrie và ngự tại núi Liban, để làm phận sự của Ngài giúp nhân loại và thâu nhận đệ tử phàm tục. Người thường nhân, không phải là đệ tử của Ngài thì không bao giờ biết được Ngài là ai, từ đâu đến đây.
________________________________

Có ba phương pháp để các vị Chơn tiên, Đại Tiên, Bồ Tát dùng xác phàm, lưu lại cõi trần, để trực tiếp giúp nhân loại tiến hóa:
a/ Mượn xác của đệ tử như trường hợp của Đức Christ tức là Đức Di Lạc Bồ Tát mượn xác của Chúa Jesus, trong ba năm chót, để giảng đạo và làm phép tại Palestin. Thế kỷ 20 này Đức Di Lạc cũng nhiều lần mượn xác của ông Krishnamurti, người Ấn Độ để giảng đạo.
b/ Lấy luôn xác của người đệ tử, khi người ấy đúng số chết, tiếp thần lực cho vào cái xác ấy sống lại, và dùng luôn. Trường hợp này như cái bình điện (Accus) yếu, không đủ sức để làm cho xe hơi chạy được. nhờ câu điện ở bình Accus khác, khi điện vào đầy đủ, bình mạnh lại, làm cho xe chạy được và chạy luôn...
c/ Đầu thai vào một đứa nhỏ mới sanh, như trường hợp của Đức Phật Thích Ca lâm phàm tại Ấn Độ.
Dưới 7 thánh sư có lối 50 vị Chơn Tiên, tiếng phạn gọi là Aseka, được điểm đạo lần thứ năm đã được giải thoát kiếp làm người làm Chơn tiên và gia nhập Quần tiên Hội để giúp nhân loại tiến hóa. Chỉ có bậc Chơn Tiên và Đại Tiên mới được phép làm thầy (Thánh Sư) và thâu nhận đệ tử. Còn là bậc La Hán trở xuống đều  đệ tử của Chơn Tiên và Đại Tiên. Bậc La Hán không có quyền thâu nhận đệ tử vì bậc La Hán chưa được giải thoát, và vẫn còn lầm lạc, và còn phải cố gắng, Tu hành thêm 7 kiếp, mới được giải thoát, hết lầm lạc và trở thành Chơn tiên chừng ấy mới được quyền thâu nhận đệ tử là phàm tục.

Trong 50 vị Chơn Tiên, tôi xin kể Tôn Danh vài vị.
1) Đức Lão Tử, nhà danh triết đời Châu họ Lý yên Nhỉ là Thuỷ tổ của Đạo giáo, cũng gọi là Lão Đam. Ngài sinh trưởng tại Trung Quốc lối thế kỷ thứ 5 trước tây lịch kỷ nguyên, hồi chưa thành Tiên Ngài viết nhiều sách giá trị trong đó Đạo Đức Kinh và Cảm Ứng Kinh.
2) Đức Djwal Kul, người Tây Tạng mới thành Chơn Tiên cách nay lối 50 năm, và hiện nay ngự tại vùng Châu thổ Shgatse gần Hy Mã Lạp Sơn ở gần Sư phụ của Ngài là Đức Thánh Sư Kuthumi (Đại Tiên). Hồi còn ở thế gian. Ngài thường đến Hội Thông Thiên Học ở Adyar (Madras) Ấn Độ. Sau khi đã được thành Chơn Tiên rồi Ngài vẩn còn lui tới Hội Thông Thiên Học ở Adyar, nhiều anh chị lớn trong hội còn gặp Ngài, kính cn hỏi Ngài, làm thế nào mà được giải thoát thành Chơn Tiên sớm như thế. Ngài khiêm tốn trả lời: ‘Cách nay không bao lâu trình độ tiến hóa của tôi như các em hiện nay’ .

Các Đấng Trọn Lành kể trên đây, hiện nay ở đâu, và Tôn nhân (Thánh Thể) của các Ngài như thế nào, xin xem quyển Chơn Tiên và Thánh Thể mới đầy đủ chi tiết.
Bây giờ tôi xin nói vắn tắt lại, chỉ có Đức Phật Thích Ca ngự tại Niết Bàn, vì Ngài có nhiệm vụ tại đó, nơi Niết Bàn có nhiều vị Chơn tiên và Đại Thiên Thần làm việc với Ngài. Còn bao nhiêu, từ Đức Ngọc Đế (Là Chúa Tể) của Quần Tiên Hội và ba vị Độc Giác Phật, bốn vị Đại Thiên Vương (Đấng Cầm Cân Tội Phước) Seigueur du Karma đều còn ở tại cõi trần này, trong một thể xác phàm mới (Corps physique) chớ không phải thể xác thuở xưa, thể xác mới này không già, không chết, trừ ra các Ngài không muốn cần dùng nữa mới cho nó chết và cho tan ra không khí.

Hiện nay có nhiều Đấng ở lẫn lộn với người phàm tục mà người đời không bao giờ biết được các ngài là Đại Tiên, là Chơn Tiên, phần đông thì ở Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya). Trừ ra Đức Ngọc Đế, bốn vị Đại Thiên Vương, và ba vị Độc Giác Phật Thì ở tại Bạch Ngọc Kinh (Shamballa) ở chính giữa sa mạc Gobi (Désert de Gobi) mà người thế gian không bao giờ biết được và đến được.
Các Đấng Thánh Sư (Đại Tiên) và Chơn Tiên có bổn phận dòm ngó xuống thế gian, mong mỏi trong hàng nhân loại có những linh hồn tiến hóa cao, hăng hái, sốt sắng, soi gương, nối bước các Ngài, để các Ngài thâu nhận làm đệ tử, dìu dắt chỉ đường dẫn lối cho được giải thoát như các Ngài, để sau này thay thế các Ngài giúp nhân loại tiến hóa.

Theo Thiên Cơ đã định, muốn được làm đệ tử của một Đấng Siêu Phàm, một Thánh nhân hay là một Đức Thầy, thì phải tu tập những đức hạnh cần yếu, sẽ nói rõ ở đoạn sau.
Được làm đệ tử của một Thánh sư là bắt đầu để chân trên Thánh Đạo, được Thánh Sư chỉ phương pháp tu luyện, rồi tự mình thực hành lấy, cho tiến hóa mau lẹ, để sau này trở thành một Đấng Trọn Lành.

 Có người hỏi, nếu tôi không cần làm đệ tử một Đấng Trọn lành nào cả, nhưng tôi hết lòng hy sinh đời tôi, để phụng sự nhân loại, không màng ban thưởng của ai cả, như thế tôi có được giải thoát không?
Xin đáp: Người nào hành động y như vậy, là hành động cao siêu, tự nhiên được Thánh sư hộ trì mà y không hay biết gì cả, dầu y không muốn gặp Thánh Sư. Ngài cũng có bổn phận âm thầm giúp đ, đưa đường dẫn lối cho y. Một khi mà y tiến hóa đúng mức rồi, đột nhiên y sẽ gặp Chơn Tiên (Thánh Sư).
Được diễm phúc giao tiếp với Ngài, y mới thấy rằng y còn quá thấp kém, và còn vô minh, chẳng khác một người mù đi trong đêm tối. Bấy giờ y mới thấy rằng rất cần có Chơn Sư chỉ đạo. Vậy bất cầu là ở trong tôn giáo nào, nếu thành Tâm, trì chí Tu Hành theo Thánh giáo, đến ngày nào mà trình độ tiến hóa xứng đáng, thì sẽ được gặp Thánh sư, và được Ngài thâu nhận làm Đệ tử (1).

Ai tự cho mình đã tiến hóa cao, mà lại chưa gặp được Chơn Sư, là người ấy vn còn ở vào giai đoạn còn thấp, mà lầm tưởng mình đã cao siêu, chớ đâu có biết mình chưa được xứng đáng để được Thánh Sư thâu nhận, vị ấy nên khiêm tốn thêm (2) và đừng thối chí, cố gắng tiếp tục tu hành hơn nữa, rồi sẽ gặp Chơn Sư chẳng sai vậy.
Xét mình cho thật kỹ, xét một cách sáng suốt vô tư, thấy cho được tánh xấu của mình, và can đảm nhìn nhận để sửa đổi, và bổ túc những đức hạnh sn có, là con đường hoàn thiện của người Chơn Tu.
Xin nhớ rằng Chơn Sư không thể phí thì giờ quí báu, để gần gũi những người còn ở vào trình độ quá thấp kém, ích kỷ, tham lam, háo danh, dục lợi, mê đắm dục tình, nhất là những người tự cao, tự đại, phách lối, kiêu căng, nóng nảy và quá kém lòng nhân (3)

Chú thích:
(1) Cách thức một Thánh Sư thâu nhận một người phàm làm Đệ Tử.
(2) Hầu hết các nhà lãnh đạo Tôn Giáo không chịu thấy mình còn nhiều tánh xấu rõ rệt và cũng không muốn nghe ai nói tánh xấu của mình, nhất là tánh tự cao và thiếu đức khiêm tốn, thiếu thành thật và kém lòng nhân.
(3) Từ xưa đến nay, trong lịch sử Chánh đạo, không có vị nào đắc quả Phật Thánh Tiên mà còn tánh xấu kể trên đây.
________________________________

Theo định luật "đồng khí tương cầu" nếu bạn cùng tôi muốn gần gũi Thánh nhân thì chúng ta phải Tu Thánh Đức và tập Thánh Hạnh, đó là điều kiện tối cần.
Ở đời này, có vô số người không thích nghe lời dạy của Phật thánh Tiên vì họ quá mê vật chất (Danh lợi Tình) hơn Tu hành, nhưng đến cơn hoạn nạn hoặc biết mình sắp chết hoặc sắp sạt nghiệp hoặc sắp bị tù tội, thì họ mới nhớ trên đầu họ còn có Trời, có Phật, có Chúa. Họ liên miên cầu trời, khẩn Phật, và lạy Chúa giúp họ. Một quyển sách Đạo, một Thánh Kinh đối với họ là liều thuốc ngủ, bảo họ xem, bảo họ ráng nghe, cũng như cầm tù họ vậy. Với lại xem Thánh Kinh họ bực bội lắm vì họ sợ cản trở những thú vui trần tục, hoặc cản trở họ đang mưu đồ danh lợi. Thế thì Thánh Giáo không bổ ích với hạng người còn say mê vật chất và giam mình vào vòng danh lợi và dục tình. Chớ chi họ chịu hiểu rằng, đời là mộng ảo, giàu sang, quyền quý, vợ đẹp, con cưng đều là mộng ảo, thậm chí cho bản thân này cũng không phải của mình; khi chết rồi, tất cả đều bỏ lại, để ra đi với hai bàn tay không và với một linh hồn đầy tội lỗi. Chỉ có linh hồn cao thượng tiến hóa cao siêu mới đưa họ đến mức giải thoát vậy.
Trái lại những người có hạnh kiểm tốt, hướng về đời sống tinh thần, khi đến một trình độ đủ sức hấp thụ giáo lý siêu phàm và giúp đời một cách đắc lực không cầu danh lợi, thì Thánh sư có bổn phận dìu đắt giúp đở, như trường hợp Bà Blavatsky, đại tá Olcolt, Bà bác sĩ Annie Besant, Đức Giám mục Leadbeater, Ông Jinarajadasa, Ông Krishnamurti và v.v...
Đặc biệt nhất là của đại tá Olcott mà tiền kiếp của Ngài là Vua A Dục (1) và hiện nay là vị sáng lập lá cờ Phật Giáo Thế giới, là vị đứng ra phục hưng Phật giáo Tích Lan và Nhật Bản, và cũng là người đầu tiên đứng ra dung hòa, hiệp nhất Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông và cũng là vị HỘI TRƯỞNG đầu tiên sáng lập Hội Thông Thiên Học, Đại Tá là một người rất hiền lành, và đức hạnh cao, nhưng ông trước kia không tin có Đấng Trọn Lành đang trực tiếp giúp đ nhân loại tại thế.
Một khi kia Bà Blavatsky, đệ tử cao cấp của một Thánh Sư (Đại Tiên) vâng mạng lệnh của Tôn Sư từ nước Nga sang Mỹ Quốc để tìm găp Đại Tá cho Đại Tá biết rằng, do lịnh Tôn Sư, Bà tìm Đại Tá để hiệp sức cùng Bà đem phổ biến khắp nhân loại, một giáo lý mới (tức là Thông Thiên Học) phù hợp với trình độ tiến hóa hiện đại vì xưa kia trình độ nhân loại quá thấp kém nên Phật Thánh Tiên không dạy được nhiều.
Vốn can trực và khí khái, khi nghe Bà Blavatsky nói đến Đức Thầy (Thánh Sư) và Phật Thánh Tiên, thì ông không tin. Cho đến một bữa kia Bà Blavatsky và Ông đương đàm đạo trong một căn phòng mà cửa đều đóng kín, đột ngột, một vị đạo mạo khác thường, từ tường bước ra (2) Ông Olcott hoảng hốt nhưng Bà Blavatsky trấn tĩnh và cho biết đó là Thánh Sư (Đại Tiên) mà Bà thường nói với Ông, Ông mới tỉnh táo và hầu chuyện Thánh Sư. Ngài cho biết rằng trong nhiều kiếp trước ông là đệ tử của Ngài, và kiếp này, đến lúc mà Ngài phải thâu nhận lại ông vào hàng đệ tử để giúp ông tiến hóa thêm và nhờ ông hiệp cùng Bà Blavatsky, truyền bá chân lý giúp đời.
Sau đàm đạo, ông Olcott vô cùng kính phục Đức Sư Phụ và từ đó được nhận làm đệ tử của Ngài. Nhờ sự giúp đỡ chỉ dẫn của Tôn Sư, ông tu luyện chóng thành công, chứng quả La Hán tức là điểm đạo lần thứ tư.
Một trường hợp khác, Đức Giám Mục (Eveque) Leadbeater cũng tương tự như thế. Một buổi chiều ông Leadbeater ngồi trên sân lầu (terrasse) tại Adyar, Madras, Ấn Độ đàm đạo với Bà Bác Sĩ Annie Besant. Đột nhiên có một vị hiện ra bên nóc nhà kế cận, (3) từ từ bước đến trước mặt ông, làm ông hoảng hốt. Bà Annie Besant trấn tĩnh ông và ông cho biết đây là Đấng Thánh Sư. Tuy còn sợ nhưng không xiết nỗi vui mừng, ông cúi lạy nằm dài, đầu sát đất theo kiểu Ấn Độ, Đức Thầy bước tới đ ông dậy và nói;"Là người phương Tây, con nên thủ lễ theo phong tục phương Tây". Rồi sau khi đàm đạo Ngài thâu nhận ông làm đệ tử. Về sau Ngài dạy ông xuất vía (xuất hồn), chỉ cho luyện luồng hỏa hầu, để mở Huệ Nhãn,(3) để giao du, quan sát với cảnh giới vô hình, và biết được, thấy được những gì đã tri qua và sắp tới hàng triệu năm.
Huệ Nhãn của ông Leadbeater soi thấu lòng người, thấy rõ linh hồn của mọi người tiến hóa đến mức nào. Trước mặt ông không còn gì là bí ẩn cả, nhờ đó và sự chỉ giáo của Thánh Sư mà ông viết được nhiều bộ sách siêu phàm (quý báu) chỉ cho người đời biết được các cảnh giới vô hình mà ông đã quan sát thấy tận mắt và những gì thuộc về hình nhi thượng học (sciences métaphysiques) mà xưa nay khoa học chưa thấu đáo nổi. Sách huyền bí của ông dẫn giải theo phương pháp khoa học và được truyền bá rất nhiều khắp thế giới.

 Chú thích :
(1) Cách thức một Thánh Sư (Đức Thầy) từ trong tường bước ra và hiện ra tại cõi Trần. Từ Hy mã lạp sơn Đức Thầy vẫn còn giữ xác phàm như chúng ta; nếu Ngài muốn đi một nơi nào thật xa, mà Ngài không thể đi bằng ngựa, hoặc bằng xe, thì Ngài phải dùng phép màu (biến hóa). Thường khi đi bằng vía (xuất vía) có khi, phải đi cả hồn, vía, lẫn xác phàm. Đi bằng vía thì rất dễ, trong nháy mắt Ngài xuất vía (xuất hồn) đi bất cứ nơi nào trên thế giới rồi trở về trong nháy mắt. Còn muốn đi xa, mà đi cả xác lẫn hồn, thì Ngài phải dùng đến phép mầu, phép Thần Thông biến hóa. Dùng tư tưởng thật mạnh của ý chí tăng cao độ sự rung động (Renforcer les vibrations) của các chất làm thể xác cho nó rung động thêm thật cao độ, thì thể xác liền biến ra nguyên tử (Atome) như không khí, chừng ấy con mắt phàm không còn thấy được nữa. Rồi Ngài dùng tư tưởng đưa các nguyên tử ấy đến nơi nào Ngài định đến. Khi đến nơi rồi, Ngài hiện nguyên hình trở lại, cả xác lẫn hồn bằng cách dùng tư tưởng trả sự rung động của nguyên tử trở lại trở lại mức độ thấp giống như cũ của nó, thì nguyên tử trở lại thành xác thịt (xác phàm) Cách thức biến hình này cũng như chúng ta biến nước đá ra thành nước lã, rồi biến nước lã thành chất hơi rồi làm cho hơi ấy trở lại thành nước lã, cho nó đặc trở lại thành đá bằng cách làm cho nó bị lạnh trở lại.
Muốn biến một chất nước thành hơi đem nước ấy trên lửa, đốt cao độ lối 100 độ, nước liền biến thành hơi nước. Chừng muốn chất hơi ấy trở lại thành nước, thì trả cho hơi ấy trở lại độ thấp bằng cách cho hơi ấy gặp lạnh (thấp độ), hơi trở lại thành nước tức thì và nếu nước gặp lạnh dưới 0 độ, thì nước sẽ trở thành đá. Sự biến chất này tùy thuộc sự rung động (Loi de vibration), rung động thấp độ nó là nước, nếu muốn cho nước thành hơi thì dùng phương pháp cho nó rung động cao bằng cách đốt cao độ cho nó. Trường hợp biến thể xác ra hơi, ra nguyên tử cũng vậy, thay vì dùng chất lửa để đun, Phật Thánh Tiên dùng tư tưởng mạnh làm cho thể xác rung động thêm cao độ, thì thể xác biến thành nguyên tử, chừng ấy tế bào tế nhị hơn điển khí xuyên được qua tường, qua sắt đá, không bị cản trở chi cả (hồn ma đi xuyên qua tường không bị cản trở chi cả. Nhà vẫn đóng cửa sắt, ma vẫn vô nhà khỏi cần mở cửa). Do đó mà Đức Thầy từ trong tường bước ra và hiện nguyên hình trở lại cả hồn lẫn xác.
Ngôi nhà này tôi có đến, lúc tôi học đạo tại Ấn Độ.
Cái phòng mà Đấng Thánh Sư hiện xuống để dạy Đức Leadbeater luyện luồng hỏa hầu vẫn còn để y nguyên cho đến ngày nay, tôi có đến tận đây để xem, lúc tôi học đạo tại Ấn Độ (lời của soạn giả Nguyễn văn Lượng)
 ________________________________

Trong quý Ngài, Quý bạn, ai muốn thấu rõ, những luật huyền bí trong vũ trụ và trong con người, xin đọc sách của ông, và vài quyển tôi xin giới thiệu dưới đây: La voie de l’occultiser (con đường huyền bí), Les maitres et le Sentier (các Thánh Sư (Đại Tiên) và đường đạo), Le Monde Céleste (cõi trời), Le Plan Astral (cảnh trung giới của người đã chết đang ở) La mort et l’etats qui suivent (chết rồi đi về đâu hay là chết và sau khi đã chết), L’homme visible et invisible (con người hữu hình và vô hình) L’occultiste dans la mort (bên kia cửa tử) De la clairvoyance (Nói về Thần nhãn), L’homme d’ou il va (con người từ đâu đến đây, rồi đi về đâu (1) Năm 1929, tôi và nhiều phật tử Việt Nam có gặp ông Leadbeater tại Sài Gòn, nơi nhà ông Raimond, kỹ sư hãng rựơu Bình Tây, nhà riêng ở đường Pierre Flandin cũ (Sài Gòn).
Ông Leadbeater được Thánh Sư chỉ dạy phương pháp tu hành đến đắc quả La Hán, tức là được điểm đạo lần thứ tư, và chính ông về sau, vâng lịnh Tôn sư mỗi đêm dắt hồn ông Krihnamurti lên tận Tôn sư để học đạo, nhờ đó mà ông Krihnamurti nhớ chép lại những lời Tôn sư dạy, làm thành một quyển sách nhỏ, vô cùng quý báu, quyển "At the feet of the master", chúng tôi dịch ra là quyển "Dưới chân Thầy" (2) ông Krishnamurti được Thánh sư chỉ dạy, phương pháp tu hành, đến nay ông được chứng quả La Hán
Quyển "Dưới Chân Thầy", khi viết xong, còn phải đem lên cho Đức Thánh Sư Kuthumi và Đức Di Lạc Bồ Tát xem lại. Sau khi xem, Bồ Tát rất hài lòng và bảo xuất bản ngay lập tức.

Chú thích :
(1) Kim tinh là bầu Thế giới rất xưa và rất già hơn địa cầu, nhân vật trên ấy tiến hóa rất cao siêu hơn nhân vật địa cầu, nên có rất nhiều vị đã thành Phật Thánh Tiên trên bầu Kim tinh.
 (2) Tại sao hai Ngài không lập tôn giáo, như Phật giáo, Cơ đốc giáo, mà lại lập hội. Hai Ngài đã biết rõ các tôn giáo, do bổn đạo phân ranh chia giới. Nếu lập thêm tôn giáo mới, thì tôn giáo cũ không chịu dự vào. Phải lập hội mới truyền bá giáo lý mới được cho tất cả tôn giáo. Hiện nay đã có bổn đạo của tất cả tôn giáo gia nhập vào Hội Thông Thiên Học để học hỏi giáo lý mới do Quần Tiên Hội đưa ra, phù hợp với trình độ nhân loại tiến hóa hiện nay. Sau này đến giống dân chánh thứ 6 và thứ 7, nhân loại tiến hóa cao siêu hơn thì bức màn huyền bí thiên cơ sẽ mở hé thêm,do đó mà đạo lý sau này còn cao siêu huyền bí hơn nữa.
Share:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu trữ Blog

Translate