NGHIỆP QUẢ ĐỐI VỚI NGƯỜI HỌC ĐẠO

Chân Sư có dạy đệ tử như sau : “con phải vui lòng chịu đựng nghiệp quả của con, dẫu rằng nó như thế nào và coi sự đau khổ đến với con như là một điều vinh hạnh, vì nó chỉ rằng Các Đấng Thiêng Liêng điều khiển luật nhân quả đã thấy rằng con đáng được giúp đỡ”.

Quả nhồi :Những người chí nguyện bước chân lên đường đạo thường hay bị quả nhồi, tai nạn và nghịch cảnh đến cho họ. Điều này được nhắc nhở luôn luôn, trước hết để cảnh giác những người học đạo cho họ biết trước việc gì sẽ xảy đến, và sau nữa, là để cho họ giữ vững tinh thần cho được bình tĩnh, an vui khi nghịch cảnh xảy đến một cách thật sự.

Luật nhân quả là một định luật thiên nhiên, cũng như mọi định luật khác về vật lý học. Người ta có thể tạo ra những điều kiện để cho nó cấp thời hành động và ảnh hưởng trực tiếp đến mình, hoặc tự đặt mình vào những điều kiện khác để tạm thời đình hoãn sự hành động của nó một thời gian. Chúng ta hãy lấy một ví dụ : Điện lực luôn luôn hoạt động luân chuyển trong không gian, nhưng ta muốn dùng mãnh lực của điện khí để thắp đèn, thì ta phải cần dùng đến một cái máy phát điện, dây điện và bóng đèn, làm cái động cơ cho điện lực có thể biểu lộ sức mạnh của nó. Luật nhân quả cũng hành động như vậy, và cái động cơ để làm cho nó bắt đầu tác động trong đời người là sự bầu thai chuyển kiếp trên cõi thế gian bằng phương pháp luân hồi. Một vài sự thay đổi trong đời người có thể hối thúc sự hành động của luật nhân quả đối với y. Thí dụ khi một người tự hiến dâng, làm một người phụng sự trên đường đạo, thì những Đấng Cầm Cân Nghiệp Quả có thể sửa đổi cái động cơ, giải tỏa số nghiệp quả còn lại của y để cho y trả những nghiệp quả đó trong một thời gian ngắn. Cái ý chí muốn tiến mau trên đường đạo chính là cái nguyên nhân thật sự làm sửa đổi cái động cơ nghiệp quả của y, giống như cái survolteur tăng điện thế. Như vậy, khi mà sự đau khổ và nghịch cảnh xảy đến cho người học đạo, thì điều đó chỉ rằng các đấng thiêng liêng đã chiếu cố đến nguyện vọng của y, và đó là một triệu chứng tốt. Trái lại, nếu không có gì xảy ra, và mọi việc đều trôi chảy bình thường thì đó có nghĩa là các Ngài chưa chiếu cố ! Về điểm này, quan niệm của huyền môn trái ngược hẳn với quan niệm thế gian : Những gì thế gian cho là tai họa, đau khổ, thì về phương diện huyền môn lại là điều tốt, vì nó là những triệu chứng của sự tiến hóa mau lẹ.
Nếu trong cơn đau khổ và thất bát về tài sản vật chất, ta lại còn bị thêm chỉ trích, chê bai và kết án của người xung quanh, thì đó là một dịp trả quả tốt nhất. Có những nghịch cảnh gây nên sự thiện cảm đó nâng đỡ tinh thần của ta rất nhiều, Trái lại, có những nghịch cảnh xảy đến còn kèm thêm những lời kết án, chê bai của kẻ khác. Trong trường hợp này, ta trả một số rất nhiều nghiệp quả cũ, và sự lên án, sự chỉ trích chê bai đó giúp cho ta trả dứt quả xấu một cách mau chóng và trọn vẹn.
Sự hiểu biết những điều trên đây, giúp cho ta có đủ sức mạnh tinh thần để chịu đựng sự đau khổ, và để cho ta có thể an ủi và giúp đỡ người khác trong cơn đau khổ của họ.

Mỗi người trong chúng ta đều có một khối cộng nghiệp gồm tất cả những hành động cả tốt lẫn xấu của ta trong nhiều kiếp. Vì trong quá khứ, tất cả chúng ta đều trải qua giai đoạn làm người dã man, trong khi đó chúng ta làm đủ mọi điều hung dữ, độc ác, nên không khỏi có một số nghiệp dữ đang chờ đợi chúng ta, để chúng ta trả dứt trong nhiều kiếp. Khi một người hiến dâng cuộc đời để phụng sự nhân loại thì tức là người ấy gián tiếp thỉnh nguyện cho nghiệp quả của mình được trả dứt mau chóng để cho trong một hai kiếp có thể thanh toán hết mọi nghiệp quả, thay vì để nó kéo dài đến hằng trăm kiếp.

Nếu chúng ta quan sát cuộc đời của những bậc Chân Tu hoặc của một vài Vị Thánh tên tuổi trong lịch sử, thì ta thấy những Vị ấy đã từng trải qua những cơn đau khổ rất lớn. Tất cả những người hiến dâng mình để phụng sự nhân loại đều bị đau khổ rất nhiều về thể chất lẫn tinh thần. Sự đau khổ đó cũng là góp phần vào việc chuẩn bị cho hành giả đi đến giác ngộ và giải thoát. Vì thế cho nên trong thánh kinh Thiên Chúa Giáo có câu : “Chúa thương người nào thì Chúa đem tai nạn dồn dập đến cho người đó” là ý nghĩa như vậy.
Những người đau khổ thường hay than thân trách phận và nghĩ đến những lúc mà thời vận của họ được sáng sủa hơn. Người học đạo nên làm ngược lại và nói : “Cũng may mà tôi chỉ có bị như vậy, chớ tôi còn có thể bị nhiều quả nặng nề hơn nữa. Tôi rất vui lòng mà trả cái quả đó và biết đâu, tôi có thể có nhiều nghiệp quả khác nữa mà tôi còn phải trả”. Chân Sư còn nói : “con nên nhớ rằng con không có ích lợi cho Chân Sư bao nhiêu, ngày nào mà con chưa trả xong mọi nghiệp quả xấu và con chưa được tự do”.
Tốt hơn là ta nên thanh toán cho dứt cái quả xấu còn treo lủng lẳng trên đầu ta, vì ta nên nhớ rằng Chơn Sư bị ngăn trở, chướng ngại rất nhiều bởi cái nghiệp quả xấu của người đệ tử, vì nó làm cho Ngài không thể dùng được những người ấy một cách tự do như ý Ngài muốn. Vậy khi tai nạn, nghịch cảnh xảy đến thì người học đạo nghĩ rằng : “Những nghiệp quả mà tôi đang trả đây sẽ giúp cho tôi trở nên hữu ích hơn cho Chân Sư, vì tôi sẽ được tự do hơn”. Khi nào tất cả những nghiệp quả xấu của người đệ tử đều trả dứt sạch, thì người ấy mới có thể để trọn thời giờ và sức lực vào công việc phụng sự thiên cơ.

Dứt bỏ lòng tham luyến, chiếm hữu.

Nếu người hành giả muốn được hoàn toàn tự do để phụng sự trong công việc của thiên cơ, thì không có cách nào hay hơn là cắt đứt mọi sự trói buộc, và từ bỏ mọi điều mong muốn sở hữu chiếm hữu của thế gian. Nghiệp quả có thể lấy mất đi của y những sự vật mà y ưa thích nhất. Trong trường hợp đó, người hành giả cũng phải vui vẻ luôn luôn và sẵn sàng dứt bỏ mọi sự cũng như mọi vật. Dứt bỏ là một điều rất khó làm. Sự chịu đựng nghiệp quả cũ còn dễ hơn nhiều. Ta phải loại trừ mọi ý thức về sự chiếm hữu người thân yêu. Điều sau này lại còn tế nhị hơn, vì ít có người đã dứt bỏ lòng chiếm hữu đối với những người thương yêu nhất của họ. Ta có thể nào dứt bỏ sự quyến luyến đối với những người thân yêu mà ta còn quí hơn là chính mình hay chăng ? Nếu ta nhận thấy trong tình yêu thương của ta, có sự gì có thể làm cho ta đau khổ, thì tất cả là có sự ích kỷ trong đó, mà ta phải loại trừ. Diệt trừ sự ích kỷ đó xong rồi, thì tình thương của ta sẽ mãnh liệt hơn, cao quí hơn và trong sạch hơn, và một tình yêu như thế không bao giờ có thể làm chướng ngại cho công việc của thiên cơ.
Ta có thể coi đó như là một sự thử thách khó khăn, mà tất cả những người học đạo nên thử trước đối với chính mình, để tập cho quen trước khi hoàn cảnh đó thật sự xảy đến. Không phải là ta nên dứt tuyệt mọi tình thương đối với người khác- đó là con đường tà đạo bàn môn. Ta vẫn có thể thương yêu người bạn của ta như thường, nhưng ta hãy cách xa người ấy một thời gian. Hoặc nếu ta muốn đi đến một nơi nào, bởi vì ở nơi đó có người mà ta thương yêu và ta muốn đến gần, thì ta hãy bỏ ý định đó và không đi nữa. Đó là cách ví dụ mà ta có thể cắt đứt những sợi dây duyên nghiệp nó ràng buộc ta một cách ích kỷ đối với người khác.
Nhưng phương pháp đó chỉ cho những người chí nguyện mà thôi, chớ không phải cho những người muốn sống cuộc đời dễ dàng êm ái, trôi chảy một cách bình thường. Khi nào ta có thể làm như vậy một cách vui vẻ và bằng lòng, thì ta mới sẵn sàng đáp ứng với tiếng gọi thiêng liêng, vì ta không thể nào hiến mình trọn vẹn cho công việc của Chân Sư, nếu ta chưa dứt bỏ được sự trói buộc thường tình của thế gian.
....................oOo................
Share:

QUẦN – TIÊN – HỘI LÀ GÌ?

Quần – Tiên – Hội tức là Thiên Đình

 Không nhờ Quần Tiên Hội giúp đỡ, thì nhân loại ở địa cầu không tiến được một bước, mà còn thoái hóa, hung ác, tàn bạo, không biết gì nhân đạo cả.
 Từ thuở mới có nhân loại trên quả đất này, Đức Thượng Đế đã lập ra Quần Tiên Hội, gồm có Đức Ngọc Đế và Phật Thánh Tiên, từ bầu Kim Tinh (1) sang qua đây để giúp đỡ nhân loại địa cầu tiến hóa, vì địa cầu lúc bấy giờ còn trẻ trung, nhân loại hồi ấy, chưa có ai tiến hóa đến bực “Phật Thánh Tiên” để giúp cho nhân loại tiến hóa.
 Đến nay nhân loại sản xuất nhiều Đấng Siêu Nhân, để thay thế cho các Đấng đã mượn ở bầu Kim Tinh, và tiếp tục coi sóc và giúp đỡ nhân loại tiến hóa.
 Quần Tiên  Hội cũng gọi là Thiên Đình đã có từ ngàn xưa để cai trị địa cầu này. Thế mà cho tới ngày nay, rất ít ai được biết rõ Quần Tiên Hội ở đâu và đang làm gì cho nhân loại. Nay đến lúc nhân loại tiến hóa khá cao, đến lúc mà Quần Tiên Hội cần phải cho nhân loại biết đôi phần bí mật trên Thiên Đình và những giáo lý cao siêu, huyền bí mà xưa kia Quần Tiên Hội chưa dạy cho nhân loại được, nên nay Quần Tiên Hội giao cho hai Đấng Thánh Sư thuộc hàng Đại Tiên, dưới quyền điều khiển của Đức Thích Ca là Đấng chưởng quản tối cao cung thứ hai là cung đạo đức, Đức Thích Ca sai hai Đấng Thánh Sư: Đức Morya và Đức Kuthumi Đại tiên xuống trần thế lập Hội Thông Thiên Học (2) vào năm 1875 ngày 17 tháng 11 dương lịch với mục đích để dạy thêm cho nhân loại những triết lý cao siêu huyền bí và chân lý mà xưa kia Phật Thánh Tiên không thể dạy cho nhân loại hiểu được, trong lúc nhân loại hồi ấy, còn ở vào trình độ quá thấp kém, không thể hiểu nổi giáo lý cao siêu của các ngài.
 Xin thuật lại hồi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, một hôm Đức Phật từ trong rừng trở về tịnh xá tay cầm một nắm lá Simcapa, Ngài đưa lên cao, hỏi các Đệ tử: nắm lá trong tay Ta nhiều, hay là lá Simcapa ở trong rừng nhiều, Đệ tử của Phật đều trả lời: Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Ngài rất ít, lá trong rừng rất nhiều.
 Đức Phật liền nói: “Đúng như thế những điều mà ta đã giác ngộ (hiểu biết) quả thật nhiều như lá trong rừng kia, còn những điều mà Ta đã dạy cho các con hiểu được rất ít như nắm lá trong tay Ta!”
  Thế thì rõ rệt, Đức Thế Tôn không dạy gì được nhiều trong khi trình độ nhân loại hồi ấy (2.500 năm trước) còn quá thấp kém (1)
Nay xuyên qua Quần Tiên Hội và Hội Thông Thiên Học, Đức Chưởng quản tối cao cung thứ hai (Le rayon) là cung Đạo đức, tức là Đức Phật Thích Ca dạy cho chúng ta một giáo lý mới, thuộc về khoa huyền bí, (hình nhi thượng học = Science métaphysique) để bổ túc vào những giáo lý, chân lý, của các giáo chủ thời xưa, cho phù hợp với trình độ tiến hóa hiện nay, hé cho nhân loại biết thêm một phần huyền bí ẩn vi của vũ trụ và con người mà khoa học đời nay chưa thấu đáo nổi.
 Chú thich:
 Chú thích: (1) Nhìn lại gần đây, cách chừng 500 năm ông bà tổ tiên chúng ta tiến hóa đến bậc nào, thật sự còn quá thấp kém, tối tâm không làm sao hiểu nổi giáo lý cao siêu, huyền bí của Phật Thánh Tiên nó khó hiểu hơn những gì khoa học đã tìm được.
Cách đây lối 300 năm về trước, trình độ nhân loại tiến hóa cũng vẫn còn rất thấp, ai biết được và nói trái đất tròn thì bị mang tội khi quân, gạt nhà vua và bị chém chết. Ngày nay nhân loại tiến hóa khá cao, đứa con nít có học cũng biết rõ trái đất tròn như viên bi.
______________________________

Các Đấng siêu Phàm trong Quần Tiên Hội xin kể dưới đây :
Đứng đầu (chúa tể) Quần Tiên Hội là Đức Ngọc Đế (9 lần điểm đạo) Ngài thay mặt Đức Thái Dương Thượng Đế (Logos Solaire) vừa cai quản Quần Tiên Hội, vừa Chúa Tể vừa coi sóc sự tiến hóa cho muôn loài vạn vật, nhân loại và thiên thần trên đia cầu này. Ngài từ bầu Kim Tinh sang đây, cách nay lối 16 triệu năm, với ba vị đệ tử của Ngài là ba vị Độc Giác Phật (Pratyeka Bouddha) và 30 Vị Đại Tiên với một số nhân loại tiến hóa cao (1).
Kế đó là Đức Phật Thích Ca (được 8 lần điểm đạo).
Ngài Chưởng Quản tối cao về cung thứ hai, là cung đạo đức hay là giáo dục, tất cả tôn giáo, đạo đức và giáo dục đều dưới sự chăm nom coi sóc của Ngài. (Hiện nay Ngài ngự tại cõi Niết Bàn).

 Chú thích :
(1)Xin nói một đoạn dã sử nói về Đức Ngọc Đế, khi Ngài ngự xuống quả địa cầu cách đây lối 16 trệu năm.
“ Theo tiếng nhạc vang động trên mấy tầng mây, chiếc xe loan của những vị Đại Thánh của bầu kim tinh, từ trên cõi không gian huyền diệu bay mau lẹ vượt qua những khoảng trống không trung, nhấp nhoáng những ánh hào quang như muôn ngàn tia tửa chói sáng cả bốn phương trời. Khi đến quả địa cầu xe ngừng lại bay lượn trên Bạch Đảo (Ile Blanche) hiện nay là Bạch Ngọc Kinh chứa đầy cỏ cây vô cùng xinh đẹp, bông hoa đua nở, ngàn hồng muôn tía đượm sắc xinh tươi, vui cười huyền bí. Ấy là bửu vật vô giá, xinh đẹp hơn hết của địa cầu, phụng hiến cho đức vua của nó Đức Sunat Kamura, tức là Đức Ngọc Đế, Đấng trường sanh bất lão.
Chỗ Đức Ngọc Đế ngự gọi là Thiên Đình ở tại Ốc Đảo (Oasis) trong sa mạc Gobi thuộc Á Châu, thiên đình vốn là một trung tâm thanh khí nên mắt phàm không thấy được, và kẻ phàm tục không đến đó được, vì chỗ ấy được bảo vệ bởi một mảnh lực phi thường. Thiên Đình có nhiều tên khác nhau: Shamballa,Agartha, một địa linh bất diệt mà chúng ta gọi là Bạch Ngọc Kính.
Đúng 7 năm một lần Đức Ngọc Đế chủ tọa nơi Bạch Ngọc Kính. Một cuộc lễ long trọng phi thường. Các Tiên Thánh và một số đệ tử điểm đạo được mời đến và nhờ đó mấy vị này được yết kiến Đấng Chúa Tể Uy Nghiêm của mình. Ngày thường Đức Ngọc Đế chỉ liên lạc với các Tiên Thánh trong Quần Tiên Hội mà thôi. Ngài không có xác thịt như người phàm. Xác thể của Ngài do ý chí của Ngài tạo bằng chất khí rút ở bầu kim tinh thân hình Ngài hoạt động như xác của con người, nhưng không hề hư hại. Tác của Đức Ngọc Đế như thanh niên 16 tuổi, uy nghiêm lẫm liệt đại từ, đại bi, hồng oai, hồng thiện. Hào quang Ngài chiếu sáng như vầng thái dương, bao trùm khắp cả địa cầu, những đệ tử được điểm đạo đến lần thứ ba A na hàm mới được dắt dẫn đến trước mật Ngài, đều kính sợ, cúi mọp không dám ngó lên, vì chịu không nỗi ánh sáng chói lòa của hào quang Ngài chiếu hiện ra.

Dưới Đức Phật Thích Ca là Tam Thanh : tức là hai vị Đại Thánh và một vị Bồ Tát được 7 lần điểm đạo.
1) Đức Di Lạc Bồ Tát (Seigneur Maitreya “Bodhisattva’’) (a) thay thế Đức Thích Ca, để trực tiếp với nhân loại ở trần gian, về tôn giáo, đạo đức và giáo dục. (Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn).
2) Đức Bàn Cổ Vaivasvata Manou, thay thế Đức Ngọc Đế, để trực tiếp với trần gian. Ngài Chưởng quản tối cao thứ nhất, tức là cung hành chánh hay là chánh trị (b). Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn.
3) Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan)= Seigneurde la Civilisation, Ngài coi sóc sự tiến bộ của nhân loại, mở mang về văn minh. Ngài chỉ huy và coi sóc sự hoạt động của Tiên Thánh trong Quần Tiên Hội và cai quản 5 cung từ cung thứ 3 đến cung thứ 7, (Đức Văn Minh Đại Đế vẫn còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn).
Dưới Tam Thanh, có 7 Đấng Thánh Sư hay là Đức Thầy toàn là Đại Tiên, tiếng phạn gọi là Chohan được 6 lần điểm đạo, có nhiệm vụ coi sóc 7 cung và thâu nhận đệ tử phàm tục.

Chú thích :
(a)Tiền kiếp Đức Di Lạc Bồ Tát là Đức Krishna lâm phàm dạy đạo tại Ấn Độ và còn lâm phàm trong 3 năm, mượn xác của đệ tử Ngài
(b)Những nhà làm chánh trị không vì danh,vì lợi, hy sinh đời mình để phụng sự quốc gia và là những người đang đi trên đường Thánh đạo nếu lòng hy sinh càng trong sạch và cao cả, sẽ được đắc Thánh như trường hợp của Thánh Gandhi của Ấn Độ, Bà nữ Thánh Jeanne d’Arc ở Pháp, Ngài Quan Vân Trường tức là Quan Thánh Đế Quân một vị tướng trung cang nghĩa khí của nước Trung Hoa. Nếu sau này còn hy sinh cao cả hơn nữa, sẽ được thành Chơn Tiên thành Đại Tiên, thành Đức Bàn Cổ, thành Độc Giác Phật, và cuối cùng sẽ thành một Đức Ngọc Đế. Các vị làm chánh trị, sự tiến hóa đi theo đường lối cung thứ nhất, mà Đấng tối cao của cung này là Đức Ngọc Đế, cầm quyền cai trị, tất cả địa cầu này. Ngài là chú tể, là vua của nhân loại và thiên thần của địa cầu.
Xin đừng lầm tưởng, những nhà chánh trị hy sinh cho quốc gia cho đồng bào là không phải người tu, các vị ấy hy sinh mà không cầu danh, dục lợi là tu rất cao vậy, dù phải giết muôn binh vạn tướng như Quan Thánh Đế Quân, và Bà Thánh Jeanne d’Arc để bảo vệ quốc gia thủy thổ, để bảo vệ đồng bào của các Ngài đương bị kẻ nghịch tham tàn đem quân đến tàn sát, chà đạp thì các Ngài giết chết, sự sát nhân ấy không có tội gì cả. Xưa kia chính tay của Đức Bàn Cổ đã giết rất nhiều bàng môn tả đạo đem binh đến tàn sát dân lành mà Ngài có nhiệm vụ dìu dắt bảo vệ dân ấy.
Ngài giết bàng môn tả đạo là vì lòng thương, lòng từ, cho chúng nó ng một giấc ngàn thu và trả quả ở địa ngục để rồi sẽ cho đầu thai nơi khác không tàn bạo, để giúp cho linh hồn ấy tiến hóa qua giai đoạn mới. Chừng nào chúng nó không thể dạy dỗ theo chánh đạo được và cứ nghịch mãi với luật trời tàn sát nhân loại mãi mãi chừng ấy chúng nó sẽ bị luật trời tiêu diệt.
Trái lại những nhà chánh trị, giết người với tính cách tàn ác để cầu danh thủ lợi, là những ác quỷ, ác quỷ này sau khi chết sẽ sa địa ngục, chớ không thành Thánh Nhân được. Đây là trường hợp Tần thỉ Hoàng thời xưa và Hitler thời nay đem binh tàn sát, để cầu danh lợi.
Mục đích tiến hóa cao cả của nhân loại là hy sinh đời mình để giúp đở cho kẻ khác mà không vì danh lợi
Mỗi lần hy sinh dầu nhỏ dầu lớn, là mỗi nấc thang vàng tiến hóa đưa con người đến mức giải thoát cuối cùng. Phật xưa kia chỉ tận tụy hy sinh vì Nhân loại, sự hy sinh ấy cao cả hơn hết, nên Phật được ngôi cao cả và được giải thoát.
Thánh Gandhi, Bà Nữ Thánh Jeanne d’Arc Quan Thánh Đế Quân cũng hy sinh gần như Phật, hy sinh tất cả hạnh phúc của đời mình để phụng sự quốc gia và đồng bào của các Ngài nên được đắc Thánh là phải lắm. Nếu trên xã hội này mà không có những nhà chánh trị đúng đắn cao siêu, không có những vị tướng, tá. .. cam đảm, anh hùng, coi cái chết nhẹ như mảy lông, hy sinh vì dân, vì nước, thì xã hội không có trật tự, và hỗn loạn mãi mãi không ai làm gì được cả. Vậy đường lối chánh trị vô cùng quan trọng cho sự tiến hóa của nhân loại vậy. Có biết bao nhiêu Đấng siêu nhân ngày nay được đắc quả Chơn Tiên, Đại Tiên, trong những tiền kiếp đã làm chánh trị, làm vua, làm quan, làm tướng.
Có một điều này, người đương tu,đương mặc áo nhà sư mà muốn làm chánh trị thì phải từ chức nhà sư, bước ra đời làm chánh trị công khai chớ không nên mặc áo nhà sư mà làm chánh trị, làm như thế, sái tôn chỉ, xáo trộn đường lối cung thứ hai là cung đạo đức do Đức Phật Thích Ca Chưởng Quản.
________________________________

Tôn danh của 7 Đấng Thánh Sư (Đại Tiên) xin kể dưới đây:

1: Đấng Thánh Sư Chưởng Quản cung thứ nhất là Đức Morya, nhiệm vụ chánh của ngài là coi về hành chánh (chánh trị) các nước trên địa cầu, Ngài làm việc dưới mạng lịnh của Đức Bàn Cổ Vaivasvata (Manou).
Lúc còn ở thế gian, Ngài làm Vua nước Radjpoutana ở miền bắc Ấn Độ, và hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ở tại vùng châu thổ Shigatse gần Hy Mã Lạp Sơn (1).

2: Đấng Thánh Sư Chưởng Quản cung thứ nhì là Đức Kuthumi, hồi còn ở thế gian ở kiếp sau cùng Ngài là người Ân Độ ở Cachemire. tiền kiếp của Ngài là Pythagore, lối hơn 2.500 năm trước, đồng thời với Đức Phật Thích Ca lâm phàm tại Ấn Độ thì Ngài đầu thai tại nước Hy Lạp, làm giáo chủ đạo Pythagore. Nay Ngài là Thánh Sư trong Quân Tiên Hội và làm việc trực tiếp với quyền của Đức Phật Thích Ca và Đức Di Lạc Bồ Tát, nhiệm vụ chánh của Ngài là coi sóc, chăm nom,canh tân cải tạo các tôn giáo thời xưa, cho phù hợp trình độ tiến hóa hiện nay. Do nơi Ngài mà nhiều giáo phái, hoặc tôn giáo mới lần lượt ra đời, để cải thiện... lần lần những giáo lý cũ kỹ ngày xưa đã mất chơn truyền, và bổ túc những gì mà thời xưa Phật Thánh Tiên không dạy được. Chính hội Thông Thiên Học do Ngài và Đức Thánh Sư MORYA, vâng lịnh Đức Phật Thích Ca lập ra hồi năm 1875. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại vùng châu thổ Shigatse gần Hy Mã Lạp Sơn.

3: Đức Thánh Sư chưởng quản cung thứ ba là Đức Vénitien, tiền kiếp của Ngài là hiền triết (họa sư) Paul Veronese, coi về thiên văn, Ngài làm việc trực tiếp dưới quyền Đức Văn Minh Đại Đế. Hồi còn tại thế, Ngài sanh trưởng tại thành Venise nước Ý Đại Lợi. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn.

4: Đức Thánh Sư chưởng quản cung thứ tư là Đức Sérapis, coi về Mỹ Thuật, nghề nghiệp làm kinh tế thế giới, Ngài làm việc dưới quyền của Đức Văn Minh Đại Đế. Hồi còn ở trần gian, Ngài sanh trưởng tại nước Hy Lạp. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm và cũng ở tại Hy Mã Lạp Sơn.

5: Đấng Thánh Sư chưởng quản cung thứ năm là Đức Hilarion, tiền kiếp của Ngài là Thánh Saint Paul sau cùng là nhà hiền triết Jamblique của giáo phái Tân Platon. Nhiệm vụ chánh của Ngài là coi về khoa học, giúp cho nền khoa học mau phát triển, phát minh nhiều và mới lạ hơn xưa. Ngài làm việc dưới quyền của Đức Văn Minh Đại Đế. Hồi còn tại thế Ngài sanh trưởng ở kiếp chót tại nước Hy Lạp. Hiện nay Ngài còn giữ xác phàm của người Crétais đảo Crète và ngự tại Hy Mã Lạp Sơn.

6: Đức Thánh Sư chưởng quản cung thứ sáu là Đức Jésustiền kiếp Ngài là nhà hiền triết, tiên tri Joshua. Ngài coi về tín ngưỡng (sùng tín = dévotion) (2) các tín đồ sùng tín của tất cả tôn giáo trên địa cầu. Ngài làm trực tiếp dưới quyền Đức Văn Minh Đại Đế.
Khi xưa Ngài là Đức Jésus sanh trưởng tại Nazreth, Palestine (3).

7: Đấng Thánh Sư chưởng quản cung thứ bảy là Đức “ Le Comte de St Germain”. Tiền kiếp của Ngài là nhà hiền triết Francis Balcon, nhiệm vụ chánh của Ngài là coi về pháp môn (yoga), Ngài cũng làm việc trực tiếp với Đức Văn Minh Đại Đế. Ngài vốn là người Âu, sanh trưởng tại nước Hung gia Lợi (hongrie). Năm 1758 tháng Févrie Ngài đến Paris, xin Vua Louis XV cho Ngài ngự tại Château de Chambord, không ai biết Ngài từ đâu đến. Dân Paris coi Ngài được trường sanh bất tử vì có người gặp Ngài 50 năm về trước đến khi gặp lại, không thấy Ngài già thêm một tý nào cả. Ngài có nhiệm vụ coi sóc Âu Châu. Hiện nay Ngài vẫn còn giữ xác phàm, và rày đây mai đó, lẫn lộn với người trần thế, nhưng người trần thế không bao giờ biết Ngài là ai và từ đâu đến.

Chú thích : (1) Đức Thánh sư Morya, trong những tiền kiếp có một điều rất khác thường, là không bao giờ Ngài đầu thai làm đàn bà, trong khi những linh hồn khác phải đầu thai 3 kiếp đàn ông, rồi phải đổi đầu thai 3 kiếp đàn bà để kinh nghiệm, có vài trường hợp đặc biệt, đầu thai trong 7 kiếp liên tiếp, hoặc nam, hoặc nữ rồi cũng phải đổi.

Đức Jesus là đấng giáo chủ Cơ Đốc giáo (Thiên Chúa Giáo) chủ trương pháp môn sùng tín (Dévotion) là một trong ba con đường chánh đạo, đưa con người đến nơi giải thoát, Ba con đường ấy là:

a/ Con đường thứ nhất là con đường hành động (Karma yoga ou Yoga de l’action) Người theo con đường này phải ráng diệt lòng tư kỷ bằng cách hành động, phụng sự nhân loại, không vì tư lợi. đời sống người ấy phải dồi dào, linh hoạt. Người phung sự nhân loại với một tấm lòng hy sinh, chớ không mong hưởng kết quả của việc mình làm.
b/ Con đường thứ hai là con đường trí huệ (Jnana Yoga ou Yoga de connaissance) tức là hiệp nhất với Thượng Đế bằng cách mở mang trí thức thiêng liêng (trí huệ). Người theo con đường này phải nhận định Đức Thượng Đế ẩn tàng trong tất cả muôn loài vạn vật. Tất cả là Ngài, Ngài là tất cả.
c/ Con đường thứ ba là con đường sùng tín (tín ngưỡng) (Bhati Yoga ou de la Dévotion) con đường này do Đức Jesus chưởng quản. Mở mang tín ngưỡng, tin tưởng mạnh mẽ, trọn vẹn Đức Giáo chủ nào mà mình sùng bái, hoặc Phật, hoặc Chúa, hoặc Đức Thựơng Đế, và mở rộng lòng nhân, lòng từ để giúp đời, cứu nhân độ thế noi theo Đức giáo chủ của mình

(3) Vài kiếp lâm phàm của Đức chúa Jesus
Lúc đầu thai tại Palestine, Đức Jesus còn ở cấp bậc La Hán (Arhat) chớ chưa được giải thoát. Vì muốn được giải thoát sớm hơn, Ngài cầu xin sư phụ Ngài là Đấng Christ tức là Đức Di Lạc Bồ Tát của người Á Đông (Việt Nam), Đấng Christ, thấy căn quả Đức Jesus đã gần chín mùi nên Ngài bằng lòng cho Đức Jesus nhồi quả, tức là cho chúa Jesus trả quả lần chót, lần cuối cùng cho thật nặng, vô cùng đau khổ, trả cho hết sạch những căn quả của tiền kiếp gây ra và còn lại, để được giải thoát kiếp làm người Đức Christ cho phép, nên Đức Jesus phải chịu chết hết sức đau khổ, bị đóng đinh trên thánh giá và bị đâm nơi quả tim. Sự trả quả vô cùng rùng rợn, đau khổ này là Đức Jesus trả những quả tiền kiếp của Ngài đã gây ra tội. Chớ không phải Ngài chịu chết đau khổ để gánh tội cho nhân loại như kinh sách đã nói. Theo luật Thiên Đình, không ai có quyền gánh tội cho ai cả, ai có vay thì phải trả, ai trước kia làm tội thì nay hoặc sau này phải trả quả. Nếu chúa Jesus có quyền gánh được tội cho nhân loại, thì nhân loại đã hết tội rồi. Trái lại nhân loại vẫn còn tội lỗi, vì còn biết bao nhiêu người còn đau khổ và còn biết bao nhiêu linh hồn hung ác, phải sa địa ngục.
Nếu Đức Jesus không xin nhồi quả, thì Đấng Christ đã cứu Ngài và đem đi mất không ai giết được. Xin lưu ý: Đức Christ và Đức Jesus, không phải là một, mà hai vị khác nhau. Thầy với trò, ba năm chót, trước khi Chúa Jesus chết thì Đức Christ tức là Đức Di Lạc Bồ Tát mượn xác của Đức Jesus để giảng đạo và làm nhiều phép lạ. Chính Đức Christ làm phép lạ chớ không phải Đức Jesus. Cách thức mượn xác: Hồn của Đức Jesus xuất ra khỏi xác, hồn Đấng Christ nhập vào và hành động hoặc dạy đạo hoặc làm phép lạ, khi làm xong, hồn Đấng Christ xuất ra trả xác lại cho Đức Jesus nhập vào trở lại...Chừng có chuyện phải làm thì mới mượn xác rồi trả lại chớ không phải mượn luôn cả ngày hoặc trọn cả ba năm.
Chúng tôi được biết là do Quần tiên hội tiết lộ ra và những đàn anh cao cấp Thông thiên học thường được dự hội Quần Tiên, thấy rõ chúa Jesus ngồi một bên mà Đấng Christ một bên, khác nhau. Nhờ nhồi quả, trả quả hết sạch lần chót ở Palestine; qua kiếp sau kế đó Đức Jesus đầu thai lại tại nước Hy Lạp lấy tên là Apollonius de Tyane. Ở kiếp này Đức Jesus đắc quả Chơn Tiên (ASEKA), tức là đã được giải thoát, không còn làm người nữa, và không bao giờ còn bị ai giết được nữa, và trường sanh bất tử. Trừ ra trường hợp Ngài thấy cái thể xác ấy, bất tiện cho Ngài muốn làm một việc gì, Ngài phải bỏ cho nó chết, để lấy thể xác khác. Như trường hợp Ngài muốn giúp dân Ấn Độ ở miền Nam tiến hóa, Ngài phải bỏ xác thể Apollonius de Tyane, để thể xác của người Ấn Độ ở miền Nam tên là Ramanujacharya, để cải cách Tôn giáo ở miền nam Ân Độ hồi thế kỷ thứ II. Ngài đưa ra, (dạy) một giáo lý cao siêu hơn. Làm cho dân chúng miền nam Ấn Độ không hiểu gì cả, nó cho Ngài là tà đạo, đến để phá đạo chúng nó, nên chúng nó định giết Ngài, Ngài biết trước và đi mất cho đến ngày nay không ai biết Ngài đi đâu; để lại một ngôi nhà mà năm 1959 và 1960 khi tôi (Nguyễn văn Lượng) học đạo tại Ấn Độ, được Đức Hodson, một vị có Thần nhãn dắt tôi và nhiều bạn đạo đến nhà ấy, và cho chúng tôi biết, đây là nhà của Đức Jesus đầu thai hồi thế kỷ thứ II, bị dân chúng kéo đến giết, nhưng Ngài đã thành Chơn Tiên rồi không ai giết được Ngài. Cái nhà tôi được thấy chỉ còn bốn vách tường, không còn nóc. Cách ngôi nhà 50 thước, còn một cái giếng hồi thuở xưa, Chúa Jesus vì quá thương hại nhân loại, muốn đem chân lý giúp nhân loại mà hai lần Ngài bị giết (một lần tại Palestine và lần sau cùng tại miền Nam Ấn Độ)
Sau cùng Đức Jesus bỏ xác người Ấn Độ tên Ramanuyacharya, và hiện nay Đức Jesus vẫn còn ở tại cõi trần này, lấy xác của người ở xứ Syrie và ngự tại núi Liban, để làm phận sự của Ngài giúp nhân loại và thâu nhận đệ tử phàm tục. Người thường nhân, không phải là đệ tử của Ngài thì không bao giờ biết được Ngài là ai, từ đâu đến đây.
________________________________

Có ba phương pháp để các vị Chơn tiên, Đại Tiên, Bồ Tát dùng xác phàm, lưu lại cõi trần, để trực tiếp giúp nhân loại tiến hóa:
a/ Mượn xác của đệ tử như trường hợp của Đức Christ tức là Đức Di Lạc Bồ Tát mượn xác của Chúa Jesus, trong ba năm chót, để giảng đạo và làm phép tại Palestin. Thế kỷ 20 này Đức Di Lạc cũng nhiều lần mượn xác của ông Krishnamurti, người Ấn Độ để giảng đạo.
b/ Lấy luôn xác của người đệ tử, khi người ấy đúng số chết, tiếp thần lực cho vào cái xác ấy sống lại, và dùng luôn. Trường hợp này như cái bình điện (Accus) yếu, không đủ sức để làm cho xe hơi chạy được. nhờ câu điện ở bình Accus khác, khi điện vào đầy đủ, bình mạnh lại, làm cho xe chạy được và chạy luôn...
c/ Đầu thai vào một đứa nhỏ mới sanh, như trường hợp của Đức Phật Thích Ca lâm phàm tại Ấn Độ.
Dưới 7 thánh sư có lối 50 vị Chơn Tiên, tiếng phạn gọi là Aseka, được điểm đạo lần thứ năm đã được giải thoát kiếp làm người làm Chơn tiên và gia nhập Quần tiên Hội để giúp nhân loại tiến hóa. Chỉ có bậc Chơn Tiên và Đại Tiên mới được phép làm thầy (Thánh Sư) và thâu nhận đệ tử. Còn là bậc La Hán trở xuống đều  đệ tử của Chơn Tiên và Đại Tiên. Bậc La Hán không có quyền thâu nhận đệ tử vì bậc La Hán chưa được giải thoát, và vẫn còn lầm lạc, và còn phải cố gắng, Tu hành thêm 7 kiếp, mới được giải thoát, hết lầm lạc và trở thành Chơn tiên chừng ấy mới được quyền thâu nhận đệ tử là phàm tục.

Trong 50 vị Chơn Tiên, tôi xin kể Tôn Danh vài vị.
1) Đức Lão Tử, nhà danh triết đời Châu họ Lý yên Nhỉ là Thuỷ tổ của Đạo giáo, cũng gọi là Lão Đam. Ngài sinh trưởng tại Trung Quốc lối thế kỷ thứ 5 trước tây lịch kỷ nguyên, hồi chưa thành Tiên Ngài viết nhiều sách giá trị trong đó Đạo Đức Kinh và Cảm Ứng Kinh.
2) Đức Djwal Kul, người Tây Tạng mới thành Chơn Tiên cách nay lối 50 năm, và hiện nay ngự tại vùng Châu thổ Shgatse gần Hy Mã Lạp Sơn ở gần Sư phụ của Ngài là Đức Thánh Sư Kuthumi (Đại Tiên). Hồi còn ở thế gian. Ngài thường đến Hội Thông Thiên Học ở Adyar (Madras) Ấn Độ. Sau khi đã được thành Chơn Tiên rồi Ngài vẩn còn lui tới Hội Thông Thiên Học ở Adyar, nhiều anh chị lớn trong hội còn gặp Ngài, kính cn hỏi Ngài, làm thế nào mà được giải thoát thành Chơn Tiên sớm như thế. Ngài khiêm tốn trả lời: ‘Cách nay không bao lâu trình độ tiến hóa của tôi như các em hiện nay’ .

Các Đấng Trọn Lành kể trên đây, hiện nay ở đâu, và Tôn nhân (Thánh Thể) của các Ngài như thế nào, xin xem quyển Chơn Tiên và Thánh Thể mới đầy đủ chi tiết.
Bây giờ tôi xin nói vắn tắt lại, chỉ có Đức Phật Thích Ca ngự tại Niết Bàn, vì Ngài có nhiệm vụ tại đó, nơi Niết Bàn có nhiều vị Chơn tiên và Đại Thiên Thần làm việc với Ngài. Còn bao nhiêu, từ Đức Ngọc Đế (Là Chúa Tể) của Quần Tiên Hội và ba vị Độc Giác Phật, bốn vị Đại Thiên Vương (Đấng Cầm Cân Tội Phước) Seigueur du Karma đều còn ở tại cõi trần này, trong một thể xác phàm mới (Corps physique) chớ không phải thể xác thuở xưa, thể xác mới này không già, không chết, trừ ra các Ngài không muốn cần dùng nữa mới cho nó chết và cho tan ra không khí.

Hiện nay có nhiều Đấng ở lẫn lộn với người phàm tục mà người đời không bao giờ biết được các ngài là Đại Tiên, là Chơn Tiên, phần đông thì ở Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya). Trừ ra Đức Ngọc Đế, bốn vị Đại Thiên Vương, và ba vị Độc Giác Phật Thì ở tại Bạch Ngọc Kinh (Shamballa) ở chính giữa sa mạc Gobi (Désert de Gobi) mà người thế gian không bao giờ biết được và đến được.
Các Đấng Thánh Sư (Đại Tiên) và Chơn Tiên có bổn phận dòm ngó xuống thế gian, mong mỏi trong hàng nhân loại có những linh hồn tiến hóa cao, hăng hái, sốt sắng, soi gương, nối bước các Ngài, để các Ngài thâu nhận làm đệ tử, dìu dắt chỉ đường dẫn lối cho được giải thoát như các Ngài, để sau này thay thế các Ngài giúp nhân loại tiến hóa.

Theo Thiên Cơ đã định, muốn được làm đệ tử của một Đấng Siêu Phàm, một Thánh nhân hay là một Đức Thầy, thì phải tu tập những đức hạnh cần yếu, sẽ nói rõ ở đoạn sau.
Được làm đệ tử của một Thánh sư là bắt đầu để chân trên Thánh Đạo, được Thánh Sư chỉ phương pháp tu luyện, rồi tự mình thực hành lấy, cho tiến hóa mau lẹ, để sau này trở thành một Đấng Trọn Lành.

 Có người hỏi, nếu tôi không cần làm đệ tử một Đấng Trọn lành nào cả, nhưng tôi hết lòng hy sinh đời tôi, để phụng sự nhân loại, không màng ban thưởng của ai cả, như thế tôi có được giải thoát không?
Xin đáp: Người nào hành động y như vậy, là hành động cao siêu, tự nhiên được Thánh sư hộ trì mà y không hay biết gì cả, dầu y không muốn gặp Thánh Sư. Ngài cũng có bổn phận âm thầm giúp đ, đưa đường dẫn lối cho y. Một khi mà y tiến hóa đúng mức rồi, đột nhiên y sẽ gặp Chơn Tiên (Thánh Sư).
Được diễm phúc giao tiếp với Ngài, y mới thấy rằng y còn quá thấp kém, và còn vô minh, chẳng khác một người mù đi trong đêm tối. Bấy giờ y mới thấy rằng rất cần có Chơn Sư chỉ đạo. Vậy bất cầu là ở trong tôn giáo nào, nếu thành Tâm, trì chí Tu Hành theo Thánh giáo, đến ngày nào mà trình độ tiến hóa xứng đáng, thì sẽ được gặp Thánh sư, và được Ngài thâu nhận làm Đệ tử (1).

Ai tự cho mình đã tiến hóa cao, mà lại chưa gặp được Chơn Sư, là người ấy vn còn ở vào giai đoạn còn thấp, mà lầm tưởng mình đã cao siêu, chớ đâu có biết mình chưa được xứng đáng để được Thánh Sư thâu nhận, vị ấy nên khiêm tốn thêm (2) và đừng thối chí, cố gắng tiếp tục tu hành hơn nữa, rồi sẽ gặp Chơn Sư chẳng sai vậy.
Xét mình cho thật kỹ, xét một cách sáng suốt vô tư, thấy cho được tánh xấu của mình, và can đảm nhìn nhận để sửa đổi, và bổ túc những đức hạnh sn có, là con đường hoàn thiện của người Chơn Tu.
Xin nhớ rằng Chơn Sư không thể phí thì giờ quí báu, để gần gũi những người còn ở vào trình độ quá thấp kém, ích kỷ, tham lam, háo danh, dục lợi, mê đắm dục tình, nhất là những người tự cao, tự đại, phách lối, kiêu căng, nóng nảy và quá kém lòng nhân (3)

Chú thích:
(1) Cách thức một Thánh Sư thâu nhận một người phàm làm Đệ Tử.
(2) Hầu hết các nhà lãnh đạo Tôn Giáo không chịu thấy mình còn nhiều tánh xấu rõ rệt và cũng không muốn nghe ai nói tánh xấu của mình, nhất là tánh tự cao và thiếu đức khiêm tốn, thiếu thành thật và kém lòng nhân.
(3) Từ xưa đến nay, trong lịch sử Chánh đạo, không có vị nào đắc quả Phật Thánh Tiên mà còn tánh xấu kể trên đây.
________________________________

Theo định luật "đồng khí tương cầu" nếu bạn cùng tôi muốn gần gũi Thánh nhân thì chúng ta phải Tu Thánh Đức và tập Thánh Hạnh, đó là điều kiện tối cần.
Ở đời này, có vô số người không thích nghe lời dạy của Phật thánh Tiên vì họ quá mê vật chất (Danh lợi Tình) hơn Tu hành, nhưng đến cơn hoạn nạn hoặc biết mình sắp chết hoặc sắp sạt nghiệp hoặc sắp bị tù tội, thì họ mới nhớ trên đầu họ còn có Trời, có Phật, có Chúa. Họ liên miên cầu trời, khẩn Phật, và lạy Chúa giúp họ. Một quyển sách Đạo, một Thánh Kinh đối với họ là liều thuốc ngủ, bảo họ xem, bảo họ ráng nghe, cũng như cầm tù họ vậy. Với lại xem Thánh Kinh họ bực bội lắm vì họ sợ cản trở những thú vui trần tục, hoặc cản trở họ đang mưu đồ danh lợi. Thế thì Thánh Giáo không bổ ích với hạng người còn say mê vật chất và giam mình vào vòng danh lợi và dục tình. Chớ chi họ chịu hiểu rằng, đời là mộng ảo, giàu sang, quyền quý, vợ đẹp, con cưng đều là mộng ảo, thậm chí cho bản thân này cũng không phải của mình; khi chết rồi, tất cả đều bỏ lại, để ra đi với hai bàn tay không và với một linh hồn đầy tội lỗi. Chỉ có linh hồn cao thượng tiến hóa cao siêu mới đưa họ đến mức giải thoát vậy.
Trái lại những người có hạnh kiểm tốt, hướng về đời sống tinh thần, khi đến một trình độ đủ sức hấp thụ giáo lý siêu phàm và giúp đời một cách đắc lực không cầu danh lợi, thì Thánh sư có bổn phận dìu đắt giúp đở, như trường hợp Bà Blavatsky, đại tá Olcolt, Bà bác sĩ Annie Besant, Đức Giám mục Leadbeater, Ông Jinarajadasa, Ông Krishnamurti và v.v...
Đặc biệt nhất là của đại tá Olcott mà tiền kiếp của Ngài là Vua A Dục (1) và hiện nay là vị sáng lập lá cờ Phật Giáo Thế giới, là vị đứng ra phục hưng Phật giáo Tích Lan và Nhật Bản, và cũng là người đầu tiên đứng ra dung hòa, hiệp nhất Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông và cũng là vị HỘI TRƯỞNG đầu tiên sáng lập Hội Thông Thiên Học, Đại Tá là một người rất hiền lành, và đức hạnh cao, nhưng ông trước kia không tin có Đấng Trọn Lành đang trực tiếp giúp đ nhân loại tại thế.
Một khi kia Bà Blavatsky, đệ tử cao cấp của một Thánh Sư (Đại Tiên) vâng mạng lệnh của Tôn Sư từ nước Nga sang Mỹ Quốc để tìm găp Đại Tá cho Đại Tá biết rằng, do lịnh Tôn Sư, Bà tìm Đại Tá để hiệp sức cùng Bà đem phổ biến khắp nhân loại, một giáo lý mới (tức là Thông Thiên Học) phù hợp với trình độ tiến hóa hiện đại vì xưa kia trình độ nhân loại quá thấp kém nên Phật Thánh Tiên không dạy được nhiều.
Vốn can trực và khí khái, khi nghe Bà Blavatsky nói đến Đức Thầy (Thánh Sư) và Phật Thánh Tiên, thì ông không tin. Cho đến một bữa kia Bà Blavatsky và Ông đương đàm đạo trong một căn phòng mà cửa đều đóng kín, đột ngột, một vị đạo mạo khác thường, từ tường bước ra (2) Ông Olcott hoảng hốt nhưng Bà Blavatsky trấn tĩnh và cho biết đó là Thánh Sư (Đại Tiên) mà Bà thường nói với Ông, Ông mới tỉnh táo và hầu chuyện Thánh Sư. Ngài cho biết rằng trong nhiều kiếp trước ông là đệ tử của Ngài, và kiếp này, đến lúc mà Ngài phải thâu nhận lại ông vào hàng đệ tử để giúp ông tiến hóa thêm và nhờ ông hiệp cùng Bà Blavatsky, truyền bá chân lý giúp đời.
Sau đàm đạo, ông Olcott vô cùng kính phục Đức Sư Phụ và từ đó được nhận làm đệ tử của Ngài. Nhờ sự giúp đỡ chỉ dẫn của Tôn Sư, ông tu luyện chóng thành công, chứng quả La Hán tức là điểm đạo lần thứ tư.
Một trường hợp khác, Đức Giám Mục (Eveque) Leadbeater cũng tương tự như thế. Một buổi chiều ông Leadbeater ngồi trên sân lầu (terrasse) tại Adyar, Madras, Ấn Độ đàm đạo với Bà Bác Sĩ Annie Besant. Đột nhiên có một vị hiện ra bên nóc nhà kế cận, (3) từ từ bước đến trước mặt ông, làm ông hoảng hốt. Bà Annie Besant trấn tĩnh ông và ông cho biết đây là Đấng Thánh Sư. Tuy còn sợ nhưng không xiết nỗi vui mừng, ông cúi lạy nằm dài, đầu sát đất theo kiểu Ấn Độ, Đức Thầy bước tới đ ông dậy và nói;"Là người phương Tây, con nên thủ lễ theo phong tục phương Tây". Rồi sau khi đàm đạo Ngài thâu nhận ông làm đệ tử. Về sau Ngài dạy ông xuất vía (xuất hồn), chỉ cho luyện luồng hỏa hầu, để mở Huệ Nhãn,(3) để giao du, quan sát với cảnh giới vô hình, và biết được, thấy được những gì đã tri qua và sắp tới hàng triệu năm.
Huệ Nhãn của ông Leadbeater soi thấu lòng người, thấy rõ linh hồn của mọi người tiến hóa đến mức nào. Trước mặt ông không còn gì là bí ẩn cả, nhờ đó và sự chỉ giáo của Thánh Sư mà ông viết được nhiều bộ sách siêu phàm (quý báu) chỉ cho người đời biết được các cảnh giới vô hình mà ông đã quan sát thấy tận mắt và những gì thuộc về hình nhi thượng học (sciences métaphysiques) mà xưa nay khoa học chưa thấu đáo nổi. Sách huyền bí của ông dẫn giải theo phương pháp khoa học và được truyền bá rất nhiều khắp thế giới.

 Chú thích :
(1) Cách thức một Thánh Sư (Đức Thầy) từ trong tường bước ra và hiện ra tại cõi Trần. Từ Hy mã lạp sơn Đức Thầy vẫn còn giữ xác phàm như chúng ta; nếu Ngài muốn đi một nơi nào thật xa, mà Ngài không thể đi bằng ngựa, hoặc bằng xe, thì Ngài phải dùng phép màu (biến hóa). Thường khi đi bằng vía (xuất vía) có khi, phải đi cả hồn, vía, lẫn xác phàm. Đi bằng vía thì rất dễ, trong nháy mắt Ngài xuất vía (xuất hồn) đi bất cứ nơi nào trên thế giới rồi trở về trong nháy mắt. Còn muốn đi xa, mà đi cả xác lẫn hồn, thì Ngài phải dùng đến phép mầu, phép Thần Thông biến hóa. Dùng tư tưởng thật mạnh của ý chí tăng cao độ sự rung động (Renforcer les vibrations) của các chất làm thể xác cho nó rung động thêm thật cao độ, thì thể xác liền biến ra nguyên tử (Atome) như không khí, chừng ấy con mắt phàm không còn thấy được nữa. Rồi Ngài dùng tư tưởng đưa các nguyên tử ấy đến nơi nào Ngài định đến. Khi đến nơi rồi, Ngài hiện nguyên hình trở lại, cả xác lẫn hồn bằng cách dùng tư tưởng trả sự rung động của nguyên tử trở lại trở lại mức độ thấp giống như cũ của nó, thì nguyên tử trở lại thành xác thịt (xác phàm) Cách thức biến hình này cũng như chúng ta biến nước đá ra thành nước lã, rồi biến nước lã thành chất hơi rồi làm cho hơi ấy trở lại thành nước lã, cho nó đặc trở lại thành đá bằng cách làm cho nó bị lạnh trở lại.
Muốn biến một chất nước thành hơi đem nước ấy trên lửa, đốt cao độ lối 100 độ, nước liền biến thành hơi nước. Chừng muốn chất hơi ấy trở lại thành nước, thì trả cho hơi ấy trở lại độ thấp bằng cách cho hơi ấy gặp lạnh (thấp độ), hơi trở lại thành nước tức thì và nếu nước gặp lạnh dưới 0 độ, thì nước sẽ trở thành đá. Sự biến chất này tùy thuộc sự rung động (Loi de vibration), rung động thấp độ nó là nước, nếu muốn cho nước thành hơi thì dùng phương pháp cho nó rung động cao bằng cách đốt cao độ cho nó. Trường hợp biến thể xác ra hơi, ra nguyên tử cũng vậy, thay vì dùng chất lửa để đun, Phật Thánh Tiên dùng tư tưởng mạnh làm cho thể xác rung động thêm cao độ, thì thể xác biến thành nguyên tử, chừng ấy tế bào tế nhị hơn điển khí xuyên được qua tường, qua sắt đá, không bị cản trở chi cả (hồn ma đi xuyên qua tường không bị cản trở chi cả. Nhà vẫn đóng cửa sắt, ma vẫn vô nhà khỏi cần mở cửa). Do đó mà Đức Thầy từ trong tường bước ra và hiện nguyên hình trở lại cả hồn lẫn xác.
Ngôi nhà này tôi có đến, lúc tôi học đạo tại Ấn Độ.
Cái phòng mà Đấng Thánh Sư hiện xuống để dạy Đức Leadbeater luyện luồng hỏa hầu vẫn còn để y nguyên cho đến ngày nay, tôi có đến tận đây để xem, lúc tôi học đạo tại Ấn Độ (lời của soạn giả Nguyễn văn Lượng)
 ________________________________

Trong quý Ngài, Quý bạn, ai muốn thấu rõ, những luật huyền bí trong vũ trụ và trong con người, xin đọc sách của ông, và vài quyển tôi xin giới thiệu dưới đây: La voie de l’occultiser (con đường huyền bí), Les maitres et le Sentier (các Thánh Sư (Đại Tiên) và đường đạo), Le Monde Céleste (cõi trời), Le Plan Astral (cảnh trung giới của người đã chết đang ở) La mort et l’etats qui suivent (chết rồi đi về đâu hay là chết và sau khi đã chết), L’homme visible et invisible (con người hữu hình và vô hình) L’occultiste dans la mort (bên kia cửa tử) De la clairvoyance (Nói về Thần nhãn), L’homme d’ou il va (con người từ đâu đến đây, rồi đi về đâu (1) Năm 1929, tôi và nhiều phật tử Việt Nam có gặp ông Leadbeater tại Sài Gòn, nơi nhà ông Raimond, kỹ sư hãng rựơu Bình Tây, nhà riêng ở đường Pierre Flandin cũ (Sài Gòn).
Ông Leadbeater được Thánh Sư chỉ dạy phương pháp tu hành đến đắc quả La Hán, tức là được điểm đạo lần thứ tư, và chính ông về sau, vâng lịnh Tôn sư mỗi đêm dắt hồn ông Krihnamurti lên tận Tôn sư để học đạo, nhờ đó mà ông Krihnamurti nhớ chép lại những lời Tôn sư dạy, làm thành một quyển sách nhỏ, vô cùng quý báu, quyển "At the feet of the master", chúng tôi dịch ra là quyển "Dưới chân Thầy" (2) ông Krishnamurti được Thánh sư chỉ dạy, phương pháp tu hành, đến nay ông được chứng quả La Hán
Quyển "Dưới Chân Thầy", khi viết xong, còn phải đem lên cho Đức Thánh Sư Kuthumi và Đức Di Lạc Bồ Tát xem lại. Sau khi xem, Bồ Tát rất hài lòng và bảo xuất bản ngay lập tức.

Chú thích :
(1) Kim tinh là bầu Thế giới rất xưa và rất già hơn địa cầu, nhân vật trên ấy tiến hóa rất cao siêu hơn nhân vật địa cầu, nên có rất nhiều vị đã thành Phật Thánh Tiên trên bầu Kim tinh.
 (2) Tại sao hai Ngài không lập tôn giáo, như Phật giáo, Cơ đốc giáo, mà lại lập hội. Hai Ngài đã biết rõ các tôn giáo, do bổn đạo phân ranh chia giới. Nếu lập thêm tôn giáo mới, thì tôn giáo cũ không chịu dự vào. Phải lập hội mới truyền bá giáo lý mới được cho tất cả tôn giáo. Hiện nay đã có bổn đạo của tất cả tôn giáo gia nhập vào Hội Thông Thiên Học để học hỏi giáo lý mới do Quần Tiên Hội đưa ra, phù hợp với trình độ nhân loại tiến hóa hiện nay. Sau này đến giống dân chánh thứ 6 và thứ 7, nhân loại tiến hóa cao siêu hơn thì bức màn huyền bí thiên cơ sẽ mở hé thêm,do đó mà đạo lý sau này còn cao siêu huyền bí hơn nữa.
Share:

HÀNH ĐẠO HẰNG NGÀY

MỤC ĐÍCH CUỘC ĐỜI

        Con người sanh ra ở trần thế, không phải để hưởng phước, ăn chơi sung sướng, hay bê tha, hoặc phải lo bù đầu, bù óc, để chạy ăn, chạy mặc, làm lụng khổ cực, chịu đủ bệnh tật, rồi đến già thì chết là hết chuyện.
        Mục đích cuộc đời là sự tiến hóa theo luật thiên nhiên. Con người phải học hỏi, tập luyện cho được toàn thiện, toàn năng, toàn tri, toàn giác. Con người phải lo giải thoát khỏi các sự trói buộc ở các cõi thấp để trở về hiệp nhứt với đấng Vô thỉ Vô chung, hay là Thượng Đế, cũng gọi là Phản bổn Huờn nguyên. Con người chính là Chơn Thần, là một điểm linh quang của Thượng Đế, tách ra để xuống Trần học hỏi, tập luyện cho được hoàn toàn, trọn sáng, trọn lành như đức Thượng Đế. Sự tấn hóa của con người không ngừng, không nghỉ, từ chỗ sơ sài đến chỗ toàn vẹn, từ chỗ phân chia đến nơi hiệp nhứt. Nhưng con người chưa biết mình là ai, xuống trần để làm gì, nên lầm lạc, chìu theo Xác, Vía, Trí, nuôi tánh ích kỷ, cứ xâu xé lẫn nhau, giết hại nhau, hơn thua tranh giành miếng ăn, đất ở, chỗ đứng nơi ngồi, rồi tới một ngày kia nhắm mắt thì bao công danh, sự nghiệp, vợ chồng, con cái, đều bỏ lại cõi Trần, nắm hai bàn tay trắng mà xuống mồ.

LUẬT TRỜI

        Đúng ngày giờ, Linh hồn phải đầu thai trở lại Trần gian, chịu khổ nữa. Nếu tìm hiểu Luật Trời để thi hành cho đúng thì mau tiến bộ, bằng không, ta bị buộc chặt vào Luật Nhơn Quả, phải chịu Luân hồi mãi không biết bao giờ mới dứt.
        Chung quanh ta có biết bao là Luật Thiên Nhiên, mà chưa có mấy người thấy được và hiểu được rành. Nhưng kinh nghiệm cho ta thấy, nếu ta thi hành thuận theo Luật Trời thì thành công, nếu nghịch với Luật Trời thì ta sẽ thất bại, sẽ đau khổ, hoặc về tinh thần, hoặc về vật chất, có khi bỏ mạng nữa. Các nhà bác học nghiên cứu khoa học, cũng phải áp dụng đúng theo Luật Thiên Nhiên mới có kết quả. Chúng ta không biết nguyên nhân các Luật xảy ra hồi nào, mà cái hậu quả ngày nay như thế đó. Làm hiền gặp lành, làm dữ gặp họa. Đấng Tạo Hóa khéo léo vô cùng. Ngài sanh ra Xác thân có ngũ quan để tiếp xúc với các việc xảy ra ở cõi Trần, lại còn có nhiều cơ quan khác để giao tiếp với các cõi trên. Luật rung động ở khắp vũ trụ; muôn loài vạn vật đều do Luật rung động mà sanh hóa, rồi cũng do Luật rung động mà tan rã. Những chất nặng nề, ô trược, thì rung động chậm chạp, dữ dội và chìm xuống thấp; chất nào nhẹ nhàng, thanh bai thì rung động lẹ làng và thăng lên cao. Hai vật rung động đồng bực với nhau thì cảm thông nhau được, cũng như hai cây đờn, lên dây đồng bực với nhau, rồi khảy cây đờn nầy thì cây đờn kia cũng rung động như vậy. Hễ ta mở máy thâu thanh đúng luồng sóng với đài phát thanh phóng ra, thì ta mới nghe được tiếng nói, nghĩa là sự rung động ở đài phát thanh và sự rung động ở máy thâu thanh của ta đồng bực nhau thì mới có âm thanh nổi lên. Nhưng còn điều nầy rất quan trọng: âm thanh thâu được đó có rõ ràng, trong trẻo hay chăng, là do các bộ phận của máy được tinh xảo nhiều hay ít, nhiều đèn hay ít đèn, có nhiều hay ít bộ phận lọc, v.v. . .
        Xác thân ta là một cái máy biến điện tinh vi, các cơ thể đều do những nguyên tử cấu thành. Nếu ta cứ để nó thô sơ, u trệ, trọng trược thì ta không thâu nhận được điều gì cao quí, bằng như ta biết tinh luyện Xác, Vía, Trí, thì chúng nó thành những cái máy tốt, thâu được các làn sóng hồng trần, làn sóng tình cảm và làn sóng tư tưởng; rồi dầu ta ngồi một chỗ, ta cũng có thể hiểu được các hành động, ý muốn và tư tưởng của tất cả các sanh linh trên thế gian. Chẳng những thế mà thôi, ta còn thâu được những làn sóng rung động trên cõi Trung Giới và Thượng Giới, tức là ta hiểu được cách sanh hoạt trên mấy cõi đó và cách cấu tạo ở trên đó nữa.

BỀN CHÍ HÀNH ĐẠO

        Muốn được như vậy, quí bạn phải bền chí tập luyện đúng phương pháp, đúng giờ khắc, không bỏ qua ngày nào thì trong một thời gian ngắn, bạn sẽ thấy có sự thay đổi trong tâm trí, lòng bạn sẽ hướng về đường lành, đức tin của bạn sẽ thêm vững vàng và cương quyết đi đến mục đích. Nếu quí bạn không lìa Đạo, không để danh lợi trên đời lôi cuốn, thì mười lăm năm sau, quí bạn sẽ trở thành một người mới. Tôi phải nói như thế vì trên đường Đạo, mỗi chặng đều có những chướng ngại cản trở để thử lòng ta. 
        Nhờ có những sự thử thách, chúng ta mới biết được sức chịu đựng của mình tới bực nào; mới thấy được chỗ hay, chỗ dở của mình để sửa chữa và bồi bổ them. Chúng ta có kinh nghiệm vững vàng rồi mới có thể dắt dẫn kẻ khác tránh khỏi những cạm bẩy, mới biết thương người còn khiếm khuyết và chưa tiến lên cao, mới biết chúng ta là một phần tử của nhơn loại. Các sự sai lầm và tội lỗi của nhơn loại đang làm bây giờ là sự sai lầm và tội lỗi của ta đã làm lúc trước và có thể ta còn tái phạm nữa, nên các nghiệp quả của ta buộc chặt với nghiệp quả của nhơn loại.
        Vì thế, bước đầu tiên của chúng ta là thực hành TỰ CHỦ; hễ thắng được bản ngã, làm chủ được Phàm nhơn thì ta sẽ thắng được các sự thử thách, và sẽ hết lòng làm tròn phận sự để giúp đỡ sanh linh. Chắc chắn thế nào cũng đi đến kết quả mỹ mãn, nhưng mau hay chậm còn tùy theo cách luyện tập của chúng ta; nếu chuyên cần học tập, cố gắng thi hành đúng đắn, luôn luôn kiểm soát việc làm và tư tưởng để sửa chữa điều còn sơ sót, thì mau có kết quả. Nếu thực hành lấy lệ, lúc tập, lúc bỏ qua, có khi chán nản vì chưa thấy kết quả, nghi ngờ công tác của mình, ham muốn những điều không cần thiết, thối chí khi gặp một chướng ngại, bỏ xụi  khi vấp ngã, thì mức thành công còn xa xôi lắm, chưa gặp sớm được.
        Nhưng việc đời đã có người làm được thì ta cũng sẽ làm được.

TẬP RÈN BA THỂ

        Chúng ta chính là Linh Hồn, là Chơn Thần; người ta cũng gọi là Chơn Như, là Phật Tánh, là Chơn Tâm, nên không bao giờ làm cái quấy, nhưng vì Phàm Nhơn hay Bản ngã buông lung, Xác, Vía, Trí bất phục tùng, chúng nó đều xưng danh là TA, nên chúng ta mới thấy có những người làm tội ác; ngày nào Phàm Nhơn biết phục thiện và hành thiện thì trần gian sẽ bớt khổ, nhơn loại sẽ hưởng được hạnh phúc thật sự.
        Chúng ta phải tập rèn ba thể: Xác,Vía, Trí một lượt, chớ không phải đợi tập xong thể nầy rồi mới tập thể khác, vì hằng ngày chúng ta đều sử dụng cả ba thể và chúng nó cũng liên quan mật thiết với nhau nữa. Sau đây tôi sẽ giải sơ lược từ thể để cho dễ hiểu. Nếu quí bạn muốn thấu triệt vấn đề, muốn phân biệt được Ta và các thể, xin đọc kỹ lại bộ sách: CON NGƯỜI LÀ AI ? XUỐNG CÕI TRẦN LÀM CHI ? trọn bộ bảy quyển: 1/- Xác thân, 2/- Phách, 3/- Vía, 4/- Trí,  5/- Con người thác rồi về đâu ?, 6/- Luân Hồi, 7/- Nhân quả.


 TINH LUYỆN XÁC THÂN
-----
THỨC ĂN
       
        Xác thân chúng ta cần phải có ăn mới sống, nhưng phần đông chưa chịu lựa món ăn tinh khiết để mà sống dai, khỏe mạnh, thậm chí có người còn dùng những món ăn có chất độc nữa, miễn khoái khẩu là được. Ngày nay, các bác sĩ trên thế giới đã công nhận rằng; thịt cá không bổ dưỡng bằng rau cải, mà lại còn có lẫn chất độc, nhất là thịt, nếu sau 24 giờ mà không bài tiết ra được, nó sẽ sanh ra chất độc và làm hại cơ thể ta. Cơm gạo là món ăn chánh của người Á Đông, nhưng nếu xay máy trắng quá, tróc hết cám thì ăn thiếu chất bổ, mà còn sanh bệnh thủng nữa. Món ăn cần thiết cho xác thịt là: rau, cải, đậu, nấm, trái cây, gạo lứt, v.v. . . Ăn chay trường cũng đầy đủ chất bổ, thân thể lại nhẹ nhàng, tinh khiết, làm việc được bền bỉ, lâu mệt mỏi hơn người ăn thịt cá, ít đau vặt, học hỏi mau thông hiểu, cảm xúc lẹ làng, dễ học Đạo. Nhưng người ta đã quen dùng thịt cá từ lâu, lại có nhiều thành kiến và thiếu nghị lực, nên khó thay đổi thức ăn. Đó là khó chớ không phải không thay thế được. Còn người có căn duyên thì thay đổi cách ăn dễ dàng. Ăn chay trường rất tốt vì nó hạp vệ sinh và lại còn đúng với lòng nhơn, hạp với đức hiếu sanh của Trời, Phật. Muốn tấn hóa cao phải ăn chay trường mới được.

THỨC UỐNG

        Người Thượng cổ ăn trái cây, uống nước lã mà sống lâu và khỏe mạnh. Đời nay người ta chế tạo đủ thứ để uống, làm hại cơ thể, nhất là rượu, nó làm hư óc xác thịt, mà còn làm hại đến cái Vía và cái Trí nữa. Muốn giao thiệp với mấy cõi cao, ta phải bỏ hẳn rượu, tránh luôn thuốc lá và Á phiện, vì thuốc lá sanh ra bệnh ung thư và làm hư cái thể Phách, còn Á phiện thì làm cho con người hư hỏng, nghiện ngập, so vai rụt cổ, không còn hăng hái hoạt động nữa.

PHẢI SẠCH SẼ

        Mỗi ngày ta phải tắm rửa cho sạch sẽ, ít nhất là một lần; quần áo phải thay đổi giặt gyạ luôn. Móng tay, móng chân phải cắt ngắn để khỏi đóng đất dơ. Khi người học Đạo tham thiền thì người rút thần lực từ cảnh cao vào mình để ban rải ra cho đời. Nếu xác thân người dơ dáy, thì thần lực trở thành ô trược, cũng như nước lọc sạch mà đổ vào bình dơ thì nước cũng sẽ hóa ra dơ, không còn dùng được.

XÁC THÂN TRÁNG KIỆN

        Muốn hành đạo được sốt sắn thì mỗi ngày cũng nên tập thể dục để máu huyết chạy điều hòa. Đi bộ, đi xe đạp, bơi lội rất tốt, nhưng đừng bao giờ để say mê thể thao rồi chơi bời quá độ, cũng như không bao giờ làm lụng quá sức. Mỗi ngày phải tập thở dài hơi. Lúc hít vào nên tưởng tượng là mình rút sinh lực vào để nuôi dưỡng và đổi mới tất cả các tế bào trong cơ thể làm cho Xác thân mình mạnh mẽ, khỏe khoắn. Khi thở ra thì tưởng tượng là mình tống tất cả các thứ bệnh hoạn, khó khăn, phiền não, ô trược ra ngoài, làm cho cơ thể mình trở nên hoàn toàn trong sạch, lành mạnh và mình cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái. Ta phải hết sức chú ý trong công việc hằng ngày, để làm cho thêm hay, thêm khéo, không bê tha, không cẩu thả, nhưng khi mệt thì nên nghỉ dưỡng sức. Làm lụng, nghỉ ngơi, chơi bời, ăn uống đều phải có điều độ thì thân thể mới tráng kiện.

GIẤC NGỦ

        Chúng ta cần phải có ngủ để lấy lại sức khỏe, nhưng ngủ nhiều quá hoặc ít quá (thiếu ngủ) đều có hại. Trung bình, mỗi ngày, ngủ lối 7 giờ là đủ.(Từ 11 giờ tối đến 6 giờ sáng). Trước khi ngủ nên để cái trí trống không, đừng suy nghĩ, đừng lo lắng, đừng mơ tưởng hão huyền, vì hễ cái trí còn xao động thì ta thao thức mãi không ngủ được, thành ra thêm hao tổn  tinh thần. Muốn ngủ yên giấc, ta nên chăm chỉ vào một tư tưởng tốt hay một câu kinh, để làm cho cái óc yên tịnh thì mới ngủ say. Linh hồn thoát ra ngoài và ở trong thể Vía, lúc đó Xác thịt mới làm cho sinh lực tiêu hóa để bồi bổ cho cơ thể. Càng ngủ say thì sinh lực càng dễ tiêu hóa. Nếu thao thức suốt đêm thì sinh lực không nuôi dưỡng Xác thịt được, nên ta phải bần thần mõi mệt.  

THỂ VÍA

        Cái Vía là cái tạng của tình cảm. Xác thịt có cảm giác được là nhờ cái Vía, cho nên khi một người bị thâu thần, cái Vía xuất ra khỏi Xác rồi, mà châm, chích, ngắt cái Xác, thì va không biết đau nữa; trái lại châm, chích, ngắt cái Vía hiện ra đó thì va thấy đau. Thể Vía dùng để hành động nơi cõi Trung Giới. Khi chết, ta bỏ thể Xác và ở trong cái Vía, hoạt động như hồi ta còn ở cõi Trần dùng Xác thịt vậy. Thể Vía có tánh ưa những sự rung động dữ dội, nên nó giục con người nóng nảy, giận hờn, oán ghét, ngã lòng, tham lam, ham mê sắc dục v.v. . . Không phải nó muốn hại ta, song vì sự rung động của mấy tánh xấu làm cho nó thích. Nó quỉ quyệt lắm, nó rán làm cho cái Trí nghĩ đến mấy tánh đó, đặng cho ta lầm tưởng là ta muốn, mà không ngờ là cái Vía muốn. Đáng lẽ nó phải tùng phục linh hồn, nhưng ta lại chìu theo nó, vì đã nhiều kiếp rồi ta cứ dung dưỡng nó, nên bây giờ nó ương ngạnh lắm. Thất tình lục dục là nó đó. Vậy ta phải tinh luyện thể Vía. Các thức ăn uống đều có chất thanh khí bao phủ, hễ món nào trược thì thanh khí bao quanh cũng trược, món nào thanh thì chất khí bao quanh trong sạch. Bởi vậy nếu ta ăn những món  nặng nề, ô trược thì Vía của ta bị nhiễm chất khí trược, nếu ăn những món tinh khiết thì nó giúp cho cái Vía ta nhẹ nhàng, trong sạch.

TÌNH CẢM

        Cái Vía sanh ra tình cảm. Nó có thói quen là lặp lại những ý muốn nào hạp với nó. Vậy ta phải tập cho nó quen muốn điều lành, tính chuyện phải. Mỗi khi ta muốn việc thanh cao thì chất thanh khí xấu bị tống ra ngoài, và chất thanh khí tốt tràn vào thay thế. Trái lại mỗi lần con người muốn thỏa dục tính, hay chuyện dữ thì chất khí tốt trong Vía bay ra,và chất khí xấu ở ngoài bay vào thế. Vì vậy cái Vía của người hiền lương thì đẹp đẽ và nhẹ nhàng, bởi nó chứa đầy chất thanh khí tốt, còn cái Vía của người hung bạo thì xấu xa và nặng nề, bởi nó chứa đầy chất khí trược. Luôn luôn ta ưa mến người đồng chí hướng, giống tình cảm với ta, nên người hiền thích chơi với người hiền. Khi hai cái Vía ở gần nhau, cái Vía nào rung động mạnh hơn, thì nó bắt cái Vía kia phải rung động điều hòa theo nó. Bởi thế, nếu ta gần gũi các vị đạo đức chơn tu, thì cái Vía của ta cũng rung động thanh bai theo các vị ấy. Phải tránh đừng xem những tranh ảnh, tiểu thuyết, hay phim, tuồng hát có tánh cách xấu xa, hung dữ, khêu gợi dục tình, mà phải đọc những chuyện có đức tánh từ bi, bác ái, hy sinh, can đảm, khoan dung, khiêm tốn, cùng những chuyện cang thường, đạo lý như: trung, hiếu, tiết, nghĩa, liêm chánh v.v. . . Cái Vía dưới quyền sai khiến của cái Trí, nên hễ luyện được cái Trí cho tinh tấn, thanh cao thì tự nhiên cái Vía cũng sẽ hóa ra tốt đẹp, nhẹ nhàng theo.

TƯ TƯỞNG

        Những tư tưởng của con người sanh ra bởi cái Trí. Muốn nhiễm vào óc xác thịt, thì chúng nó phải đi ngang qua cái Vía và cái Phách. Thể Vía là cái cầu, liên lạc giữa cái Trí và Xác thịt, nhưng nó chịu ảnh hưởng của cái Trí nhiều hơn Xác thịt, nên hễ có một tư tưởng nào đụng tới nó, thì nó rung động điều hòa theo liền. Vậy ta phải kiểm soát tư tưởng luôn luôn, không cho một tư tưởng xấu nào ở trong Trí, để cho Vía và Trí đều trong sạch và yên tịnh. Chỉ nên nhớ những tánh tốt của người chung quanh và bỏ qua các lỗi lầm của họ. 
        Hễ ta suy nghĩ nhiều chừng nào thì cái Trí càng mở rộng ra nhiều chừng nấy. Chất Thượng Thanh Khí làm ra cái Trí rung động lẹ làng và không ngừng. Nó tùy theo tư tưởng mà thay đổi liền liền, bởi vì thể Trí tự động rút những chất khí nào hạp với nó dễ dàng. Vì vậy, hễ người nào lo sửa đổi tánh tình thì tư tưởng được tốt đẹp, rồi thì những màu sắc xấu xa, đen tối của cái Trí bay ra ngoài hết và màu tươi tắn, đẹp đẽ sanh ra để thay thế. Đó là tự nơi ta làm cho ta trở nên cao thượng, hay thấp hèn, chớ không phải tại ý muốn của Trời đâu.

LỢI VÀ HẠI CỦA TƯ TƯỞNG

        Tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự tấn hóa và kiếp số của con người. Tùy theo bản chất của tư tưởng mà nó làm lợi hay làm hại cho đời. Mỗi lần ta tưởng quấy thì ta phạm ba tội một lượt :
       
        1/- Ta làm cho cái Trí ta trở nên xấu xa, tức là ta hại ta trước.
        2/- Ta làm hại những người chung quanh ta.
        3/- Ta làm tăng thêm sự khổ cho đời.

        Nếu ta tư tưởng điều lành, điều cao thượng thì chất khí nào xấu ở trong Trí ta đều bay ra hết, và chất khí tốt hạp với tư tưởng lành tràn vô thế, đồng thời tư tưởng lành ở ngoài cũng bị thu hút lại để tăng cường tư tưởng thiện của ta. Còn những tư tưởng xấu khi đến gần cái Trí của ta thì bị dội ra liền. Khi ta suy nghĩ mãi mãi những điều thiện thì tư tưởng lành của ta sẽ thành một thần lực mạnh mẽ, đi kích thích thể Trí của những người chung quanh ta, khiến họ cũng tư tưởng đến việc thanh cao như ta, rồi lần lần tư tưởng của họ sẽ tiếp sức với tư tưởng của ta, bay ra xa giúp đỡ cho nhơn loại trở nên thanh cao, từ bi, bác ái. Tất nhiên là sự đau khổ trần gian sẽ lần lần tiêu mất.
        Những tư tưởng của ta sanh ra ở kiếp nầy sẽ tạo ra hoàn cảnh cho kiếp sau của ta. Tùy theo tánh cách tốt xấu mà chúng nó sẽ làm cho ta gặp bạn hữu tốt hay kẻ thù địch, và ta sẽ gặp người trợ giúp hay những chướng ngại trên đường đời của ta. Đó là Luật thiên nhiên: NHÂN NÀO SANH RA QUẢ NẤY.

TÁNH NẾT THỂ TRÍ

        Cái Trí vốn tánh nết lao chao, không chịu định vào một chỗ nào lâu, nó giống như con bướm, đậu bông nầy rồi bay qua bông kia, liền liền không ngớt. Ta thường nói: Tôi tư tưởng cái nầy, tôi tư tưởng việc kia, nhưng kỳ thật, trong mười chuyện thì hết chín chuyện do cái Trí tư tưởng và hưởng ứng theo sự việc từ ngoài vào, còn chính ta suy tưởng, chỉ một chuyện là cùng, có khi chẳng có tưởng nghĩ gì cả. Cái Trí là một thể để cho ta dùng, nhưng nó lại rất kiêu căng tự phụ, coi ai cũng thua nó. Việc nào nó cũng khoe là nó hiểu, nó biết, nó giỏi, nó khéo, còn mấy cái Trí khác đều tầm thường.
        Thể Trí cũng như thể Vía và Xác thân, đều là tôi tớ của ta. Ta phải làm chủ và sai khiến nó. Từ nhiều kiếp trước ta không hiểu như vậy, nên nó tự do sai khiến ta và ta đã chịu biết bao nhiêu khổ não, sầu muộn rồi. Bây giờ ta phải tập cho nó vâng theo mạng lịnh của ta. Hễ làm chủ cái Trí rồi thì dễ sai khiến cái Xác và cái Vía.
        Phương pháp để làm chủ ba thể là ĐỊNH TRÍ và THAM THIỀN.

ĐỊNH TRÍ

        Định trí hay tập trung tư tưởng là chăm chỉ vào một việc không để cho trí xao lảng, hay nhớ chuyện khác. Từ công việc hằng ngày như quét nhà, gánh nước, may áo, bửa củi, đến công việc ngoài đồng, làm thơ, đọc sách, viết văn, tìm tòi, nghiên cứu khoa học v.v. . . bất kỳ làm việc nào cũng phải chú ý vào việc đó, không để cái Trí nhớ cái nầy, cái kia. Nếu Trí tưởng đến việc khác thì phải kéo nó trở lại. Không nói chuyện tầm phào lúc làm việc. Khi đọc sách thì đem hết tâm trí để vào sách, tìm hiểu ý nghĩa của câu văn. Các Phật tử lần chuổi, niệm Phật, cũng là định trí. Điều cần nhất là phải bền chí tập lần lần. Tuần đầu tập cho trí không xao lảng mỗi lần 2 phút; tuần thứ nhì mỗi lần 3 phút; tuần thứ ba và thứ tư mỗi lần 4 phút, cứ lần lần tăng thêm lên 5 phút, 7 phút, 10 phút v.v. . . Lâu ngày, khi quen rồi thì định trí bao lâu cũng không hại gì. Người học Đạo, nhất là người mới tập, không nên để cái Trí ở không. Phải có sẵn một câu chơn ngôn, một ý tưởng cao thượng, để khi rảnh rang thì nhớ nó liền. Tập định trí cho đến khi có người nói chuyện bên tai cũng không nghe, trẻ giởn trước mặt cũng không thấy, thì mới gọi là thành công.

*    *    *

THAM THIỀN

        Tập định trí được rồi thì Tham Thiền mới có kết quả, suy nghĩ mới được rõ ràng, thấu đáo mọi vấn đề, trí hóa mới mở mang rộng rãi. Tham thiền tức là suy nghĩ kỹ một vấn đề nào đó, đặng thấu hiểu cho tột lý lẽ cao siêu của nó, xem xét đủ các phương diện. Nhưng, nếu suy nghĩ mãi những điều thấp hèn, tranh danh đoạt lợi, mưu mô xảo quyệt thì càng làm khổ cho đời, tránh sao khỏi bị quả báo, lầm than.
        Khi tập định trí được rồi thì tư tưởng mạnh lắm. Nếu tâm lành ta chưa mở thì ta sẽ làm hại cho đời càng nhiều hơn bây giờ. Vì vậy, kinh sách đạo đức luôn luôn dạy phải tham thiền những tánh tốt.
        Có nhiều cách tham thiền, mỗi người nên tìm cách tham thiền nào hạp với mình để thực hành, vì có cách tham thiền đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho người nầy, mà người khác thực hành thì không được như ý nguyện.

LỢI ÍCH CỦA SỰ THAM THIỀN

Mỗi ngày phải tham thiền ít nhất là một lần, để tưởng nghĩ đến những việc tinh khiết, cao siêu, đem tâm hồn mình lên cõi thiêng liêng. Khi quen rồi, hễ tâm trí rảnh rang, nhàn rổi thì ta liền nhớ đến những việc cao thượng đó. Tham thiền là một phương pháp tập thể thao của thể Trí và thể Vía, nhờ vậy mà hai thể nầy trở nên mạnh mẽ, thần lực lưu thông dễ dàng. Ta có thể lợi dụng sự tham thiền để mở mang những tánh nết tốt, tạo những thói quen chánh đáng. Nhờ đem tâm ta lên cảnh cao, nên khi trở về xác thịt, ta càng sáng suốt thêm. Sự tham thiền chính chắn sẽ dắt con người đến bực có huệ nhãn và hiểu được những sự bí mật của TẠO HÓA .

SỬA ĐỔI TÁNH TÌNH

        Khi xem xét thấy mình còn tật xấu nào thì phải tìm một tánh tốt, nghịch với tật xấu đó để tham thiển. Thí dụ: có tánh ích kỷ, thì lo tham thiền về tánh bác ái, từ bi, bố thí, vị tha; có tánh gian xảo, thì lo tham thiền tánh chơn thật; còn nóng giận, thì tham thiền tánh ôn hòa, điềm đạm, trầm tĩnh. Ta nên kiểm soát kỹ lưỡng các nết hư thói xấu của ta, rồi làm một bảng thống kê đủ mười hai đức tánh tốt, nghịch với các điều sai lầm của ta để tham thiền trong một năm. Các hạnh kiểm cần phải có như: TỪ BI, BÁC ÁI, CHƠN THẬT, HY SINH, BỐ THÍ, CAN ĐẢM, KHOAN DUNG, NHẪN NẠI, VŨNG TÂM, TỰ TÍN,TRẦM TĨNH, ÔN HÒA, CƯƠNG QUYẾT, v. v . . . Mỗi đức tánh được tham thiềm liên tiếp trong một tháng, rồi sang qua đức tánh khác, cũng một tháng. Trong ngày, hễ rảnh trí thì nhớ liền tánh tốt đó. Tập như thế giáp một năm thì ta đã có mầm mống của 12 đức tánh tốt. Năm sau, ta bắt đầu tập lại nữa, cho thật rành.

THAM THIỀN KHÔNG GIÁN ĐOẠN

        Muốn có kết quả tốt đẹp, ta phải tập liên tiếp, không bỏ quên ngày nào, trừ ra lúc đau ốm. Nếu tập ít ngày rồi nghỉ, kế tập lại, rồi nghỉ nữa, cứ gián đoạn mãi thì khó làm chủ cái Trí được. Có CƯƠNG QUYẾT, NHẪN NẠI mới thành công. Ban đầu hay ngủ quên, khi thức dậy thì lo làm công việc hằng ngày, chừng nhớ lại, đã trễ giờ. Phải tập cho quen để tham thiền đúng giờ và không bỏ quên lần nào. Khi tập một đức tánh nào, thì trọn ngày, phải cố gắng thực hành cho đúng tánh tốt đó. Tham thiền không phải là làm lấy lệ, mà phải hết sức chăm chỉ, tận tâm, tin chắc việc mình làm.
        Nếu có giờ rảnh thì mỗi ngày tham thiền ba lần:SÁNG, khi thức dậy, lối 5 giờ rưỡi, hay 6 giờ; TRƯA, lúc đúng ngọ và CHIỀU, lúc chạng vạng, trể lắm là đến 9 giờ tối. Phải tham thiền lúc bụng trống, nếu ăn no mà tham thiền thì đồ ăn khó tiêu hóa, vì sinh lực bị dồn lên óc nhiều lắm, không còn đủ sức giúp bộ tiêu hóa. Nếu vì công việc bận rộn, thì ít nhứt cũng phải giữ đúng, đều đều buổi tham thiền sáng, trước khi làm công việc hằng ngày. Ban đêm, từ 10 giờ đến 3 giờ sáng, không nên tham thiền, vì lúc đó sinh lực xuống ít lắm, không ich lợi chi cho tinh thần mà thêm hại cho xác thịt.

CÁCH NGỒI THAM THIỀN

        Ngồi kiết già hay bán già được càng tốt, nếu chưa quen thì ngồi xếp bằng trên giường, hoặc ngồi trên ghế dựa, thòng hai chân xuống cũng được, cần nhứt là ngồi thẳng lưng, không cúi xuống hay ngã ngữa, và trí không xao lảng ra ngoài đầu đề. Nên nhắm mắt lại để dễ định trí.

PHÒNG THAM THIỀN

        Nếu có phòng riêng để tham thiền thì tốt lắm. Nơi đó phải trang nghiêm, nên thường đốt nhang thơm, đốt trầm để cho thanh khiết. Trên vách chỉ treo tranh ảnh Phật, Chúa, các vị Đại Đức. Không nên để người thường, chưa biết đạo đức vào phòng, vì e họ gieo những tư tưởng không tốt, làm trở ngại việc hành đạo của ta. Phòng tham thiền là nơi thâu lãnh ân huệ của các đấng Chí Tôn ban xuống để truyền sang cho muôn loài vạn vật. Vì vậy, khi bước tới cửa phòng là ta phải gát bỏ tất cả các tư tưởng trần gian, thấp hèn. Tâm trí phải thanh tịnh, hướng về các đấng Cao Cả, thì tham thiền mới có kết quả mỹ mãn. Không có phòng riêng cũng không sao. Ta lựa chỗ sạch sẽ trong nhà và không ai đến làm rộn mình là được.
        Sau khi tham thiền, nên làm vài cử động tay chân, chà xát trên trán cho máu chạy đều.

HƯỜN HƯ

        Suy nghĩ mãi thì cái óc rất mệt. Vậy phải tập làm sao cho quen, khi có việc phải suy nghĩ thì ta tư tưởng, khi xong công việc rồi thì đừng tưởng cái chi cả, để cho cái óc nghĩ ngơi. Bên chánh đạo gọi là Hườn Hư.
        Muốn tập hườn hư thì nằm ngữa ngay thẳng, hai tay để xuôi theo mình, không tưởng cái gì hết. Hễ tư tưởng nào vô thì xua đuổi nó ra lập tức. Ban đầu thấy khó, nhưng bền chí cũng sẽ được, như định trí. Thức một đêm mà hườn hư được trong 15 phút thì thấy khỏe khoắn lại rồi.
        Các điều phải thực hành trong Đạo Đức rất nhiều, kể không xiết, nhưng nếu thông hiểu và thực hành được những điều đã nêu ra ở trên một cách kỹ lưỡng, đúng đắn, thì chúng ta cũng đã tiến xa trên đường Đạo rồi.
        Khi làm xong bực nầy rồi, chúng ta sẽ lần lên bực khác cao hơn nữa.
        Sau đây, tôi phác họa vài cách tham thiền để giúp người mới bắt đầu luyện tập.

BUỔI SÁNG

        Sau khi thức dậy, đúng giờ mình quyết định (tùy theo công việc làm ăn hằng ngày của mình, lối năm, sáu giờ sáng là tốt), rửa mặt xong rồi, ngồi kiết già, bán già hoặc xếp bằng trên giường, hoặc ngồi trên ghế thấp thòng hai chân xuống, cách nào cũng được, miễn thấy thoải mái và thuận tiện. Hai bàn tay úp trên đầu gối, lưng thật thẳng, không cúi xuống hay dựa ngữa, nhắm mắt lại, (nếu sanh buồn ngủ thì đừng nhắm mắt.)
        Trước khi cầu nguyện và tham thiền, nên tập thở dài hơi ít lượt để cho được hoàn toàn tỉnh táo.
       
ITHỞ

        Bắt đầu, chúng ta thổi ra một hơi dài bằng miệng, ép bụng lại để tống hết những không khí không trong sạch ra ngoài.

1/- Thở vào.
        Hít hơi vào nhẹ nhàng bằng mũi, đưa xuống tới bụng và nói thầm trong lòng: Tôi đem sinh lực vào để nuôi dưỡng và đổi mới tất cả các tế bào trong cơ thể. Đồng thời tưởng tượng thấy sinh lực (những hạt nhỏ nhiều màu sắc như: vàng, hường, lục, đỏ, cam, tím v.v. . .) theo hơi thở chạy vào khắp châu thân, và tất cả các tế bào của các bộ phận trong người mình đều được đổi mới, mạnh lành, tươi tốt.

        2/- Thở ra .
        Xong, thở ra cũng nhẹ nhàng bằng mũi và nói thầm trong lòng: Tôi tống hết tất cả các thứ bệnh hoạn, khó khăn, phiền não, ô trược ra ngoài. Đồng thời, tưởng tượng thấy các thứ bệnh hoạn, khó khăn, phiền não, ô trược . . . đều bị tống hết ra ngoài theo hơi thở. Bây giờ cơ thể mình hoàn toàn trong sạch, lành mạnh và mình cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái.
        Tác dụng của việc thở nầy là giúp cho xác thân mình được mạnh lành, vô bệnh.
        Tập thở như vậy từ 5 đến 10 lần.

II- THAM THIỀN và CẦU NGUYỆN

        Thở xong, vẫn giữ tư thế ngồi như trước, mắt lim dim hoặc nhắm lại tưởng tượng thấy hình Đức Phật, Đức Chúa hay một Đấng nào mà mình tôn thờ hiện ra trên không trung, hào quang sáng rỡ trùm phủ lấy mình, rồi đọc bài cầu nguyện sau đây:

BÀI CẦU NGUYỆN
      
        Aum (Ôm) ! Cầu xin các đấng Chơn Sư mà con hằng mong mỏi được làm đệ tử chỉ cho con thấy ánh sáng mà con đương tìm kiếm. Cầu xin các Ngài lấy Đại Đức Từ Bi và Minh Triết mà phò trợ con. Có một sự an lạc tuyệt vời không ai tưởng tượng được, nó đang ngự trị trong tâm của kẻ sống trong tâm của Đấng Vô Thỉ, Vô Chung trường tồn bất diệt. Có một năng lực phục sinh mọi vật, nó đương sống và động tác trong tâm của kẻ biết rằng Chơn Thần là một. Cầu xin sự an lạc ấy ở tâm con. Cầu xin năng lực ấy nâng đỡ con lên cao cho đến khi Đấng Duy Nhất được phép Điểm Đạo hiện ra và con thấy chói rạng ngôi sao của Ngài.

(Bài nầy đọc một lần)

        Khi đọc bài nầy, Trí tưởng tượng, thấy Đức Phật, Đức Chúa hay Đấng mà mình tôn thờ vẫn tỏa hào quang rực rỡ bao phủ lấy mình và đưa tay ban ân huệ cho mình.
        Bài kinh cầu nguyện nầy gọi là “Ân huệ của cung thứ nhất”. Ai có lòng thành đọc đến thì có ân huệ ban xuống. Người có huệ nhãn thấy có những lằn hào quang nhiều màu sắc như màu vàng ròng, màu trắng bạc và trội nhất là màu xanh điễn khí xẹt xuống người đang cầu nguyện.
       
        Đọc tiếp câu dưới đây : (3 lần)

        Aum (Ôm) ! Sáng hơn nhật tinh, trong hơn băng tuyết, mịn hơn dĩ thái, ấy là Chơn Thần con của Đức Thượng Đế. Tôi là Chơn Thần, Chơn Thần ấy là tôi.

        Đọc câu nầy, tưởng tượng thấy mình là Chơn Thần tỏa hào quang sáng rỡ như mặt trời giữa trưa chói rạng khắp năm châu, bốn bể.

        Rồi đọc tiếp:

        Aum (Ôm) ! Nguyện cầu vạn vật thái bình. (3 lần).

        Đọc câu nầy 3 lần xong, tưởng tượng thấy trong vòng hào quang rực rỡ của mình, khắp thế giới, từ thành thị đến thôn quê, tất cả mọi người đang làm ăn yên ổn trong cảnh an lạc, thanh bình. Chiều đến họ trở về sum họp dưới mái gia đình cùng với ông bà, cha mẹ, vợ chồng con cái. Người thì ăn uống chuyện trò nói cười vui vẻ, người thì đờn ca xướng hát, người thì đọc giảng xem kinh, tất cả đều chăm lo trau giồi đạo đức, sửa tánh tu hiền. Họ thương yêu nhau, giúp đỡ, tương trợ nhau, coi nhau như anh em một nhà. Những trẻ em tấp nập đến trường nói cười vui vẻ như đàn chim non ca hót buổi bình minh, những người làm ăn, buôn bán, công chức, thợ thuyền đều hiền lành chất phác, thuần lương, nhân hậu.
        Trên thế giới, mọi dân tộc đều yêu chuộng hòa bình. Tất cả mọi người, từ dân chúng cho đến các cấp lãnh đạo quốc gia đều muốn được sống trong cảnh thanh bình, nước ai nấy ở, cơm ai nấy ăn. Họ thương yêu, giúp đỡ và tương trợ nhau coi nhau  như  anh  em  trong tình HUYNH ĐỆ ĐẠI ĐỒNG. Họ còn tìm cách cải thiện đời sống của nhau, làm cho nhân loại được sống trong cảnh thái bình, an cư lạc nghiệp, ấm no hạnh phúc.
        Muôn loài cầm thú cũng được sống trong cảnh an lạc thái bình. Dưới sông, tôm cá bơi lội nhởn nhơ, trong rừng, muôn chim ca hót, trăm hoa đua nở, vườn tược cây trái sum xuê và tất cả những loài muông thú đều thương yêu nhau, quấn quit lấy nhau và chúng trở nên hiền lành ngoan ngoãn dễ thương.
       
        Xong, đọc tiếp câu chú sau đây (3 lần)

        Aum ! gate gate paragate, parasamgate
Bodhi, svaha.    
        (Đọc: Ôm, gat gat, pa-ra-gat, pa-ra-sam-gat, bô-đi, xơ-qua-ha).

        Khi đọc câu nầy vẫn giữ tư tưởng y như trước, mình tỏa hào quang sáng rỡ phủ trùm khắp năm châu, bốn bể.
*
*     *
III-  XEM XÉT CÁC THỂ

        Thực hành xong các phần trên, bây giờ ta tưởng tượng thấy mình là Chơn Thần bay bổng lên không trung, hào quang sáng rỡ, nhìn xuống Xác thân mình đang ngồi tham thiền.
        Chăm chú nhìn Xác thân mình và nói:

        Xác thân tôi không phải là tôi, nó là một lớp áo của tôi mặc, một con ngựa của tôi cỡi, tôi dùng nó để làm việc và học hỏi ở cõi Trần. Nó rất mạnh khỏe, đẹp đẽ và tinh tấn. Nó rất trong sạch và nhạy cảm. Nó luôn luôn vâng theo lời sai khiến của tôi.

        Đọc đoạn nầy tưởng tượng thấy Xác thân của mình mạnh khỏe, đẹp đẽ, tươi tắn, hào quang chói sáng. (Có thể tưởng tượng đến hình ảnh hào quang khương kiện của cái Phách).
        Kế đó nhìn vào cái Vía, cũng y chỗ của cái Xác, nhưng bây giờ tưởng tượng cái Xác là phần đông đặc của cái Vía, có vùng hào quang hình trứng, nhiều màu sắc bao bọc bên ngoài (xem hình) và nói:         
       
        Cái Vía của tôi cũng không phải là tôi. Nó là lớp áo thứ hai của tôi mặc. Tôi dùng nó để biểu lộ những tình cảm trong sạch, những ý muốn thanh cao. Nó rất đẹp đẽ, vui vẻ và ôn hòa, Nó luôn luôn vâng theo lời sai khiến của tôi và chẳng bao giờ có ý muốn riêng biệt của nó.

        Đọc đoạn nầy tưởng tượng thấy hình cái Vía màu sắc đẹp đẽ, chói sáng, miệng cười hồn nhiên.
        Xong, nhìn vào cái Trí, cũng y chỗ cái Vía, nhưng bây giờ tưởng tượng cái Xác là phần đông đặc của cái Trí và có vùng hào quang của cái Trí bao bọc bên ngoài (xem hình) và nói:

        Cái Trí của tôi cũng không phải là tôi. Nó là lớp áo thứ ba của tôi mặc. Tôi dùng nó để ghi nhớ, phân biện, học hỏi, suy gẫm, tưởng tượng, nhận xét và phán đoán .Nó rất minh mẫn và sáng suốt. Nó luôn luôn theo dõi những hành động của tôi và cũng luôn luôn vâng theo lời tôi sai khiến.

        Đọc đoạn nầy, tưởng tượng thấy cái Trí của mình chiếu hào quang màu sắc đẹp đẽ (xem hình cái Trí của người tấn hóa và tưởng theo đó).
        Tới đây, nhìn lại tất cả ba thể: Thân, Vía, Trí, (tưởng tượng lại hình ảnh của ba thể ấy trong trí mình) và nói:
        Xác thân, cái Vía và cái Trí của tôi đều không phải là tôi, nó là những lớp áo của tôi mặc, những tên đầy tớ trung thành của tôi. Còn tôi, chính là Chơn Thần, con của Đức Thượng Đế. Tâm tôi nhập vào tâm của Ngài và tâm của muôn loài vạn vật. Lòng Từ Bi, Bác Ái của tôi bao trùm khắp muôn loài vạn vật. Hào quang của tôi chiếu sáng khắp năm châu bốn bể, tôi là trung tâm vận chuyển thần lực và ân huệ của các Đấng Thiêng Liêng ban rãi lại cho tất cả muôn loài vạn vật trên khắp cả thế gian. Muôn loài vạn vật đều được thắm nhuần trong ánh hào quang rực rỡ của tôi và mạnh khỏe, vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc nhận những thần lực, ân huệ và điễn lành mà tôi ban rãi cho. Aum !
        Đọc đoạn nầy, tưởng tượng thấy mình là Chơn Thần đang ngồi lơ lửng trên không hào quang rực rỡ (xem hào quang trong hình Đức Phật Hiện và tưởng tượng như thế, hoặc chói sáng như mặt trời giữa trưa), rồi nhập vào giữa ngôi mặt trời (tượng trưng Đức Thượng Đế), ánh sáng chiếu rực rỡ khắp mọi nơi. Hình bóng mình tỏa hào quang hiện ra trên khắp sông hồ, đồng ruộng, núi non, cây cỏ, cầm thú và trong tâm của tất cả mọi người. Muôn loài vạn vật đều vui tươi, an lạc, mạnh khỏe, sung sướng tắm trong ánh hào quang của mình và nhận những ân huệ, thần lực và điễn lành mà mình ban cho.
        Đến đây, định trí vào tư tưởng chót nầy độ vài ba phút rồi đừng nghĩ gì nữa cả, để trí trống không trong trạng thái chờ đợi độ chừng năm, mười phút rồi xả thiền.
        Niệm Thánh Ngữ “Aum” (7 lần).
        Hai tay chà trán, đầu và khắp châu thân để máu chạy đều.
*
*      *
CHÚ Ý :
        Trên đây chỉ là những gợi ý cho người mới luyên tập. Người nào từ trước đã có cách tham thiền khác, có kết quả tốt thì cứ tiếp tục, đừng thay đổi.
        Để dễ thực hành, người mới tập nên học thuộc lòng những câu cần đọc rồi đọc y như vậy khi thực tập. (phần có gạch dưới)
        Chừng nào thuộc rồi thì vừa đọc vừa tập trung tư tưởng, tưởng tượng những gì đã gợi ý trong từng phần một cho đến hết.
        Phần gợi ý (dòng tư tưởng) cũng cần học thuộc. Lúc đầu cứ đọc theo như vậy, sau thuộc rồi mới dùng tư tưởng tưởng tượng y như có thật. Có thể bổ sung thêm những gì cần bổ sung.
        Điều cần nhất là tư tưởng phải tập trung, đừng phân tâm để cho cái Trí nghĩ sang những vấn đề khác.
        Mỗi lần tham thiền độ 15 đến 20 phút.
        TRƯA : Nếu có đủ thì giờ thì làm y như buổi sáng, còn không tiện thì niệm lại ba câu:
1-           Sáng hơn nhật tinh . . .
2-           Nguyện cầu vạn vật thái bình.
3-           Gate, gate . . .
        CHIỀU- TỐI : Thực hành cũng như buổi trưa.
        TRƯỚC KHI NGỦ : Phải kiểm điểm lại những hành động trong ngày, nhớ từ công việc đã làm, lời nói, ý tưởng, trong ngày; bắt đầu từ giờ phút xem xét đó trở lại cho tới khi mới thức dậy, rồi từ hồi sáng cho tới giờ nầy. Nếu có làm được việc lành, thì ta sẽ cố gắng làm thêm nữa, nếu có lỗi lầm thì quyết định lần sau không tái phạm, và nhớ lại đức tánh tốt đối với lỗi đó. Điều cần thiết là đừng để ngủ quên trước khi xem xét hết các hành vi trong ngày.
VÀI CÁCH THAM THIỀN KHÁC
        Ngồi ngay ngắn :
        1/- Đọc chậm chậm một đoạn văn trong sách đạo đức đã học trước, hoặc một đoạn trong sách nào cũng được, chăm chú vào đó, cố gắng tìm hiểu đầy đủ ý nghĩa, đừng để trí tưởng sang chuyện khác. (Suy gẫm trong năm phút).
        2/- Tưởng nhớ đến một Đấng Chí Tôn (Phật, Chúa, Thượng Đế . . .) ở ngoài và ở trong tâm của mình, cố gắng tưởng tượng thấy mình hiệp nhứt với Ngài (thấy Ngài và mình nhập thành một). Đọc lời khấn nguyện: Aum ! Sáng chói hơn Nhật tinh, trong sạch hơn băng tuyết, tinh vi hơn dĩ thái, ấy là Chơn Thần ngự trong Tâm tôi, tôi là Chơn Thần, Chơn Thần đó là tôi. (Tưởng niệm trong 5 phút).
        3/- Tưởng đến một Chơn Sư toàn thiện, toàn năng, toàn tri, toàn giác. Hy vọng Ngài sẽ đến dìu dắc mình. Ngài sẽ là vị thủ lãnh, là Thầy, là Bạn của mình. Ngài là người biểu lộ vẻ huy hoàng, lòng Bác ái và sự Minh Triết của Thượng Đế. Ngài là hiện thân của đức tánh mình đang tập luyện trong tháng. Thành tâm ước nguyện là mình sẽ đem đức tánh đó thi hành trong khắp thế gian. 
        (Tưởng niệm trong 5 phút. Nếu rộng thời giờ thì tăng gấp đôi thời gian tham thiền.)
THAM THIỀN ĐỂ MỜ CÁC ĐỨC TÁNH
--------
        Để mở các đức tánh như: Từ Bi, Bác Ái, Can Đảm, Hy sinh, Chơn Thật, Khiêm Tốn v.v. . . chúng ta theo trình tự như sau:
        Ví dụ: Tham thiền để mở lòng Từ Bi.
      - Trước tiên chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ Từ Bi. Từ bi là gì ? Tại sao ta phải có lòng từ bi ? Người có lòng từ bi phải như thế nào ? 
      - Sau đó, ta suy nghĩ để tìm hiểu coi ta phải tỏ thái độ như thế nào để thực hiện được đức Từ Bi trong mọi trường hợp, mọi tình huống: đối với người thân, với bạn bè, với người không quen biết, với người có ác cảm với ta, mưu hại ta, với mọi loài thú cầm, với loài cây cỏ (thảo mộc).
        Chúng ta thử nghĩ đến những tình huống khác nhau xảy ra, như có người lầm lỗi với ta (vô tình, hay cố ý), có người muốn xúc phạm ta, có người bị nạn tai, có người bị oan khúc, có người bị ốm đau, tàn tật, một con vật bị hành hạ, một bụi hoa bị khô héo v.v. . . trước tình huống nào, ta phải có thái độ như thế nào, để tỏ ra là một người thật có lòng từ bi.
        Và khi ta đã nghĩ được phương cách đối xử tốt đẹp rồi thì ta phải áp dụng, đem ra thi hành trong đời sống hằng ngày của ta.
        Hành động nầy tạo ra cho ta một thói quen tốt, nó sẽ trở thành tánh tình của ta và mãi mãi không có gì thay đổi được.
        Tham thiền để mở các đức tánh khác cũng làm y như vậy.                  
KẾT LUẬN
        Tham thiền mà được thành công là nhờ suy tưởng đúng đắn, chăm chỉ và rõ ràng, ngày ngày liên tục. Mỗi lần tập được năm, mười phút không xao lảng sẽ có ích lợi hơn là ngồi cả giờ mà không định trí được, hoặc thường gián đoạn.
        TƯ TƯỞNG TẠO RA TÁNH NẾT, và CON NGƯỜI SẼ TRỞ THÀNH CÁI GÌ MÀ NGƯỜI BỀN CHÍ TƯỞNG NIỆM. 
        Nếu thiên hạ đều biết lo trau giồi đức hạnh: Từ bi, Hỉ xả, lo giúp đời thì nhơn loại sẽ thoát khỏi bến mê, biển khổ, và mau tấn hóa.
        Cõi Trần sẽ trở thành cõi Thiên Đường, hay là cõi NIẾT BÀN tại thế.
Nguyện cầu VẠN VẬT THÁI BÌNH.
Share:

Lưu trữ Blog

Translate