QUẦN TIÊN HỘI VÀ SỰ CAI TRỊ THẾ GIAN
V.- Phải thật có THIÊN ĐÌNH như Kinh sách xưa nay đã nói không?
Đ.- THIÊN ĐÌNH có thật. Thiên Đình cũng gọi là Quần Tiên Hội, là một đoàn thể gồm những vị Siêu phàm thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế cai trị thế gian. Cai trị ở đây nghĩa là điều khiển sự sanh hóa và sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu cho đúng với Cơ Trời.
NGÔI THỨ TRÊN THIÊN ĐÌNH
V.- Trên Thiên Đình có phân ngôi thứ không?
Đ.- Điều nầy luôn luôn vẫn có, tôi xin kể cho Huynh nghe.
-I-
Trên hết và Chủ tể Quần Tiên Hội là Đức NGỌC ĐẾ, được 9 lần Điểm đạo.
-II-
Kế đó là bốn vị Phật, được 8 lần Điểm đạo. Ba vị Phật ở Cung Thứ Nhứt gọi là Độc Giác Phật (Pratyéka Bouddha ou Pachcheka Bouddha) và một vị Phật ở Cung Thứ Nhì gọi là Phật Đạo Đức (Bouddha).
-III-
Tam Thanh được 7 lần Điểm đạo:
1)- Đức Bàn Cổ (Manou)
2)- Đức Bồ Tát (Bodhisatva)
3)- Đức Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan)
- IV-
Dưới Tam Thanh là 7 vị Đế Quân, được 6 lần Điểm đạo. Mỗi vị coi sóc một Cung.
-V-
Dưới các vị Đế Quân là những vị A-Sơ-Ca, những vị Chơn tiên được 5 lần Điểm đạo.
-VI-
Dưới Chơn Tiên là những vị Đệ tử được Điểm đạo từ một lần tới bốn lần. Phật giáo gọi là Tứ Thánh.
a) Những vị La Hán (Arhat) được 4 lần Điểm đạo.
b) Những vị A Na Hàm (Anagamin) được 3 lần Điểm đạo.
c) Những vị Tư Đà Hàm (Sakridagamin) được 2 lần Điểm đạo.
d) Những vị Tu Đà Hườn (Sotapanna) được 1 lần Điểm đạo.
NHIỆM VỤ CỦA MỖI VỊ
V.- Huynh có thể nào nói nhiệm vụ của mỗi vị chăng?
Đ.- Các Thánh kinh đều dạy rằng: Chỉ nên nói những điều nầy cho những người thành tâm mộ Đạo mà thôi. Nếu lọt vào tai những người chưa thông thạo Đạo Lý Thánh Hiền thì họ không hiểu chi hết. E có khi họ sanh lòng bất kính, ngạo báng, khinh khi thì họ sẽ gây quả xấu cho họ về sau. Vậy khá thận trọng. Thế nên tôi xin nói về nhiệm vụ của các Ngài một cách kính cẩn và vắn tắt.
- I -
ĐỨC NGỌC ĐẾ
Trên mỗi bầu Hành tinh có ba vị Thánh đế thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế, để cai trị và điều khiển một cách tuyệt đối sự sanh hóa của các loài vật trên đó, mỗi vị trong một kỳ gian.
Tại cõi Trần, người ta gọi các Ngài là ba vị NGỌC ĐẾ.
Đức Ngọc Đế hiện kim là Đức Ngọc Đế thứ ba. Hai vị trước đã mãn nhiệm kỳ lâu lắm rồi. 16 triệu rưởi năm trước, lúc Giống dân thứ Ba phân chia nam nữ thì Ngài từ Kim Tinh xuống với những vị khác:
a) Ba vị Độc Giác Phật, đệ tử của Ngài.
b) Lối 25 vị Đại Thánh đủ các cấp bực, và
c) 105 thường dân ở Kim Tinh mà Ngài cho đầu thai chung lộn với nhân loại trên Địa cầu.
Ngài qua Địa cầu với ba mục đích.
Một là: Cầm quyền cai trị và điều khiển sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu trong giai đoạn thứ ba.
Hai là: Lập Quần Tiên Hội.
Ba là: Thúc đầy sự phát triển trí tuệ.
Ngài đem theo nhiều thứ cây cỏ trong đó có lúa mì và hai loài: ong và kiến.
Mật ong và lúa mì là hai món thực phẩm bổ dưỡng nhứt, còn ong và kiến giúp cho cây cối kết trái mau lẹ. Ngày nay các nhà bác học chưa truy ra được vì nguyên nhân nào mà đời sống tập thể của loài ong và kiến lại không giống các loài thú khác trên Địa cầu.
TÁC CỦA NGÀI
Tác của Ngài bằng một vị thanh niên mười sáu xuân xanh, do phép thần thông hóa ra. Đã mười sáu triệu rưởi năm rồi, không dùng một món chi mà vẫn không già, không cỗi. Thật là vóc ngọc mình vàng, trường sanh bất tử.
Kinh sách cổ Ấn Độ xưng tụng Ngài là Sanat Koumara (Sa Na Cu Ma Ra). Sanat là một tên của Đức Thượng Đế Brahma, còn Koumara có hai nghĩa: một là thanh niên, hai là Vương đế.
Người ta gọi Ngài và ba vị Độc Giác Phật là bốn vị Hồng Quân (Les 4 Seigneure de la Flame, Les Enfants du brouillard de Feu, Les Fils du Feu). Các Ngài là những vị Thiên Tôn Manasaputras (Ma Na Sa Pu Tra) giúp cho con người mở mang trí tuệ.
THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
V.- Các vị Đại Thánh ở Kim Tinh mở mang trí tuệ con người cách nào?
Đ.- Các Ngài chiếu hào quang vào con người, nhờ từ điển của các Ngài mà tia sáng thiêng liêng trong mình con người bừng chói sáng rỡ trong chớp nhoáng không khác nào ánh sáng mặt trời làm cho cái bông đang búp nở ra vậy.
Nhờ các Ngài mà trí tuệ của con người phát triển trước một Cuộc Tuần Hườn, bởi vì trong Cuộc Tuần Hườn thứ Tư nầy, đúng phép là con người mới mở mang cái Vía tức tình cảm. Qua Cuộc Tuần Hườn sau tức là Cuộc Tuần Hườn thứ Năm thì cái Trí con người mới hoạt động mạnh mẽ. Cuộc Tuần Hườn thứ Năm mới là Cuộc Tuần Hườn của Trí tuệ (Ronde Mentale).
Cả triệu con thú cũng nhờ các Ngài giúp đỡ theo cách đó mà có Thượng trí, được đi đầu thai làm người, trước khi "cánh cửa thiên nhiên đóng lại giữa con người và thú vật".
(Xin xem bảng Nhơn vật Dãy Nguyệt Tinh)
QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC NGỌC ĐẾ
Tâm của Ngài thông suốt từ cõi Tối Đại Niết Bàn cho tới cõi Trần. Hào quang của Ngài bao trùm quả Địa cầu cho nên không có một con kiến nào chết mà Ngài không hay, hoặc là một sự vật bất công nào xảy ra ở bất cứ nơi nào mà Ngài không biết, bởi vì tại Trái đất nầy, Ngài vốn toàn năng, toàn giác, toàn thiện, vô sở bất tại.
Ngài dùng được tất cả những trạng thái siêu việt của Fohat, thần lực của Thái Dương Thượng Đế và luôn những thần lực của Vũ trụ ở ngoài địa cầu.
Thường thường thì Ngài lo lắng cho sự tiến hóa chung của Nhân loại, nhưng khi Ngài để ý đến một người nào thì Ngài giúp ngay Atma, tức là Chơn thần của người ấy, nhờ vậy y tiến tới một cách mau lẹ.
Duy có một mình Ngài được phép Điểm đạo mà thôi. Không có sự ưng thuận của Ngài thì không một ai được vào Quần Tiên Hội. Luôn luôn trong hai kỳ Điểm đạo đầu tiên: lần thứ nhứt và lần thứ nhì. Ngài nhờ Đức Bồ Tát [[1]] nhân danh Ngài mà Điểm đạo. Qua kỳ Điểm đạo lần thứ Ba, lần thứ Tư thì Ngài Điểm đạo, hoặc là Ngài giao cho một vị Độc Giác Phật nhân danh Ngài.
Có những vị La Hán nói rằng: Ngài oai nghi lẫm liệt cho đến đỗi các vị ấy quì trước mặt Ngài, nắm nắm, nóp nóp, chẳng dám ngó lên, có khi phải lấy tay bụm mắt vì chịu không nổi cái nhìn của Ngài và hào quang rực rỡ của Ngài.
Chỉ có một mình Ngài xử dụng cây PHÁP LỊNH mà thôi.
CÂY PHÁP LỊNH
Cây Pháp Lịnh tượng trưng uy quyền tối thượng của Đức Ngọc Đế. Nó hình tròn dài lối sáu tấc, bề trực kính năm phân, hai đầu gắn hai hột xoàn tròn, lớn và đầu nhọn. Nó làm bằng một thứ kim khí tương tợ như vàng gọi là Oricalcum, mà ngày nay thứ đó không còn trên mặt Địa cầu nữa. Luôn luôn có một thứ lửa chói sáng ngời và trong vắt bao bọc nó.
Đức Hành Tinh Thượng Đế (Logos Planétaire) truyền thần lực của Ngài vô cây Pháp Lịnh nầy, khi mà lần đầu tiên Ngài cho Linh hồn của nhơn vật xuống đầu thai ở Dãy Địa Cầu nầy.
Cây Pháp Lịnh là một trung tâm để thâu nhận thần lực của Ngài. Nó là chỗ Ngài tập trung tư tưởng. Người ta đem nó từ Bầu Hành Tinh nầy sang Bầu Hành Tinh kia, tùy theo Đức Hành Tinh Thượng Đế chủ ý đến Bầu Hành Tinh nào, bởi vì chốn đó là trường tiến hóa của các loài vật. Không rõ cây Pháp Lịnh nầy khi qua ở những Bầu Hành Tinh vô hình thì bằng cách nào? Chẳng ai biết được.
Ngoài những việc trên đây, cũng chẳng rõ ngày thường nó dùng để làm gì, chỉ nghe nói rằng: Khi nó bỏ Bầu Hành Tinh nào rồi thì sự hoạt động của Bầu Hành Tinh đó đã chấm dứt. Sanh khí đã mất hết chín phần mười, chỉ còn một phần mười đủ dùng cho nhơn vật theo đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần Hườn. Thế nên cây Pháp Lịnh nầy liên quan đến sự sanh tồn của các loài vật trên mỗi Bầu Hành Tinh.
Ngày thường nó chỉ ở tại Thiên Cung SAMBALLA (Sam Ba La) và dường như nó có hai trường hợp được đem ra ngoài: Một lần là lúc lễ Điểm Đạo, một lần nữa trong lúc lễ Vía Phật Thích Ca. Trong lúc làm lễ, duy có một mình Đức Bồ Tát được phép cầm nó mà thôi.
THIÊN CUNG
Thiên Cung ở tại Bồng Lai đảo (Île Blanche) – thuở xưa là một hải đảo ở chính giữa biển Qua Bích (Mer de Gobi) dẫy đầy kỳ hoa dị thảo, phong cảnh u nhàn, tại Địa cầu không có chốn nào sánh kịp. Mười sáu triệu rưởi năm trước, ấy là món quà của Trái đất kính cẩn dâng lên cho vị Thánh Đế của mình.
Bồng Lai đảo tức là Bồng Lai trong các truyện Thần tiên của Trung Hoa đã miêu tả. Sau những cuộc tang thương, Đại hải Qua Bích biến thành sa mạc, nhưng không chút chi hề hấn. Bây giờ nó là một ốc đảo, gọi là Sam Ba La (Samballa) và không khác nào là trái tim của quả Địa cầu. Những luồng trược khí đều gom lại đó, rồi mới biến đổi ra thanh khí để nuôi dưỡng các loài như cũ, không nghỉ không ngừng.
V.- Những người du mục, những người thám hiểm đến sa mạc Qua Bích (Désert de Gobi) có được gặp Thiên Cung chăng ?
Đ.- Phải được từ ba lần Điểm đạo trở lên và có lịnh vời mới tới đó được. Chứ người thường, lòng còn tràn trề dục vọng, che mất thiên lương thì dầu có tới sa mạc Qua Bích và thám hiểm liên tiếp trong vòng 10 ngàn năm đi nữa, chớ đừng nói 9, 10 năm, cũng không mong lại gần được Thiên Cung, nói chi là thấy nó bởi vì họ bị các Thiên thần án mắt.
HỘI QUẦN TIÊN
Bảy năm một lần, Đức Ngọc Đế cho vời các Tiên Thánh trên Địa cầu, có khi vài vị La Hán được mời tới Thiên Cung dự một cuộc lễ, dưới quyền chủ tọa của Ngài.
Cuộc lễ nầy lớn hơn và quan trọng hơn lễ Huê Sắc (Vésak) (Lễ Vía Phật Thích Ca) và có một đặc tánh khác hơn.
Người thường không rõ mục đích của cuộc lễ nầy, nhưng người ta có thể ước đoán rằng dầu sao cũng có sự xem xét những việc xảy ra trên cõi Trần và những điều của Quần Tiên Hội đã thực hiện trong thời gian đó.
Cuộc hội hiệp nầy cũng là một dịp để cho Tiên Thánh tiếp xúc với vị Chúa Tể của mình, bởi vì ngày thường Ngài chỉ tiếp kiến những vị Chủ Tể của các Cung như Đức Phật, Đức Bồ Tát, Đức Bàn Cổ, Đức Văn Minh Đại Đế và các vị Đế Quân mà thôi; ngoại trừ khi cần thiết, Ngài mới cho vời đương sự đến trước mặt Ngài. Có lẽ vịn theo đây mà truyện Tàu đặt ra Hội Bàn Đào, Tây Vương Mẫu mời các Thần Tiên đến dự gọi là Quần Tiên Đại Hội.
NHIỆM VỤ CỦA NGÀI RẤT QUAN TRỌNG
Nhiệm vụ của Đức Ngọc Đế thứ Ba quan trọng hơn nhiệm vụ của hai vị trước.
Ngài phải điều khiển sự tiến hóa của nhơn vật cho đến mức độ của Cơ Trời đã định sẵn cho họ tại Bầu Trái Đất nầy trước khi chấm dứt mọi hoạt động. Khi Giống dân thứ Bảy đã tàn, xong nhiệm vụ rồi, thì Ngài đem cả ngàn triệu Linh hồn trao cho Đức Bàn Cổ Mầm Giống (Manou Semence) săn sóc và chịu trách nhiệm trong khi họ nghỉ ngơi ở cõi Niết Bàn. Đúng ngày giờ thì Đức Bàn Cổ Mầm Giống sẽ giao họ lại cho Đức Bàn Cổ Cội Rễ (Manou Racine). Đấng Chí Tôn nầy mới đem họ qua Bầu Hành Tinh thứ Năm là Bầu Thủy Tinh, cho họ đầu thai đặng tiếp tục sự tiến hóa của họ ở trên đó.
VỊ PHỔ TỊNH ĐẠI ĐẾ
(Le Veilleur Silencieux)
Khi hoàn thành nhiệm vụ cao cả nầy rồi thì Đức Ngọc Đế về cõi khác. Ngài qua một kỳ Điểm đạo nữa là lần thứ Mười. Ngài sẽ thành một vị Phổ Tịnh Đại Đế (Veilleur Silencieux) thế cho Đức Phổ Tịnh Đại Đế hiện kim.
Ngài sẽ lãnh trách nhiệm canh chừng nhơn loại trọn một thời gian bằng một Cuộc Tuần Hườn trên bảy Bầu Hành Tinh.
Bảy Bầu đó là :
- ba Bầu còn lại của Cuộc Tuần Hườn thứ Tư, và
- bốn Bầu của Cuộc Tuần Hườn thứ Năm.
Ba Bầu còn lại của Cuộc Tuần Hườn thứ Tư là Bầu thứ Năm E (Thủy Tinh – Mercure), Bầu thứ Sáu F và Bầu thứ Bảy G.
Bốn Bầu của Cuộc Tuần Hườn thứ Năm là: Bầu thứ Nhứt A, Bầu thứ Nhì B, Bầu thứ Ba C (Hỏa Tinh - Mars), Bầu thứ Tư D (Địa cầu chúng ta). Đây có nghĩa là: Nhơn loại phải qua ba Bầu chót nữa mới hết Cuộc Tuần Hườn thứ Tư. Rồi qua Cuộc Tuần Hườn thứ Năm, nhơn loại phải trở lại Bầu thứ Nhứt A, Bầu thứ Nhì B, Bầu thứ Ba C (Hỏa Tinh), Bầu thứ Tư D (Địa cầu chúng ta).
Tới chừng nhơn loại rời Địa cầu một lần nữa, Ngài mới giao nhiệm vụ kỳ lạ và nặng nề nầy cho một vị khác lên thay thế cho Ngài.
Hiện giờ Đức đương kim Phổ Tịnh Đại Đế chưa mãn nhiệm kỳ.
- II-
A.- BA VỊ ĐỘC GIÁC PHẬT
(Pratyéka Bouddha)
Kinh sách Ấn Độ gọi ba Ngài là :
1) Sanandana,
2) Sanaka,
3) Sanatana.
Ba Ngài sẽ thay phiên nhau lãnh nhiệm vụ NGỌC ĐẾ đặng điều khiển sự tiến hóa trên Bầu Thủy Tinh khi nhơn loại qua đó.
Thân thể của ba Ngài cũng do thần thông hóa ra, muôn kiếp ngàn đời không hề hư hoại. Hiện giờ các ngài ở tại Thiên Cung với Đức Ngọc Đế.
Pratyéka Bouddha dịch là Độc Giác Phật, tôi e không đúng, bởi vì trong chữ Độc Giác có ẩn nghĩa ích kỷ. Pháp dịch là Bouddhas Egoistes, Bouddhas Solitaires. Có lẽ tại người ta cho rằng những vị Độc Giác Phật chỉ lo khai sáng cho mình mà thôi, chớ không độ ai cả. Điều này không đúng với sự thật, người ta lầm vậy.
Chúng ta nên hiểu rằng: Các vị Pratyéka Bouddha thuộc về Cung thứ Nhứt, là Cung Hành chánh, Cung Uy quyền, chớ không phải lo cho các Tôn giáo phát triển.
Hơn nữa, các vị Độc Giác Phật ở Kim Tinh, thuộc Hệ thống Tiến hóa không giống Hệ thống tiến hóa của chúng ta, mà trong nhơn loại cũng chưa có vị nào tu hành tới bực Độc Giác Phật cả.
Nhưng có một điều chắc chắn là từ ngày mới học Đạo cho tới lúc làm một vị Phật, các Ngài đã độ đời rất nhiều, mặc dù nhơn vật đó không phải là nòi giống của chúng ta. Các Ngài đã trải qua nhiều cấp bực Điểm đạo từ một lần lên tới tám lần vậy.
Trong Thái dương hệ, luật Trời chỉ có một. Nếu tu hành mà ích kỷ thì không thể nào thành Chánh quả đâu.
B.- PHẬT ĐẠO ĐỨC
Danh từ Bouddha dịch là Phật, có hai nghĩa :
Một là: Giác - Sáng suốt.
Hai là: Địa vị của Đấng Chí Tôn được 8 lần Điểm đạo, cai quản Cung thứ Nhì ở mấy cõi cao.
Nếu nói: Phật chỉ là Giác mà thôi thì chưa đủ.
BẢY VỊ PHẬT ĐẠO ĐỨC
Trên mỗi Hành Tinh có bảy Giống dân Chánh, tuần tự sanh ra thì phải có bảy vị Phật Đạo Đức, mỗi Giống dân có một vị để điều khiển công việc của Cung thứ Nhì ở mấy cõi cao.
Ba vị Phật của ba Giống dân trước đã điêu tàn rồi là:
1) Đức Padmatara,
2) Đức Siki và
3) Đức Kasyapa (Ca Diếp).
Ba Ngài ở Kim Tinh qua giúp Dãy Địa cầu.
ĐỨC PHẬT THỨ TƯ
Đức Phật thứ Tư là Đấng Chí Tôn mà người ta gọi là Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là Đức Phật của Giống dân thứ Tư, là Giống Át-Lăn (Atlantes). Ngài cũng là người thứ nhứt của nhơn loại đắc quả Phật mới 2.500 năm nay.
Trước khi thành Phật, Ngài đã ở ngôi Bồ Tát và đã giáng phàm nhiều lần. Người ta biết được vài kiếp quá khứ của Ngài như sau đây:
1)- VYASA bên Ấn Độ, lập Ấn Độ giáo.
2)- HERMÈS bên Ai Cập, lập ra Tôn giáo Quang Minh.
3)- ZOROASTRE, vị đầu tiên của 29 vị Zoroastres, lập ra Đạo thờ Lửa, gọi là Hỏa Thần giáo hay Bái Hỏa giáo.
4)- ORPHÉE, ở Hi Lạp, dùng Âm nhạc và Thi ca đặng giáo hóa, còn nhiều kiếp nữa chưa tri ra.
VÌ SAO CÓ PHẬT RA ĐỜI ?
Khi có một Giống dân nào đó gần tàn rồi thì Đức Bồ Tát của Giống dân đó giao quyền Chưởng giáo cho Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhì lên kế vị cho Ngài. Còn Ngài thì qua cõi khác và qua một lần Điểm đạo nữa; lần nầy là lần thứ tám và làm một vị Phật Đạo Đức.
Thành Phật rồi thì Ngài lâm phàm lần chót đặng dạy Đạo. Xong rồi thì Ngài trở về Thiên Đình lãnh nhiệm vụ Chủ Tể Cung thứ Nhì . . . Từ đó Ngài không còn dính dấp tới trần ai nữa.
Kiếp chót, Đấng Chí Tôn mà ta gọi là Đức NHƯ LAI mượn xác Thái tử Sĩ Đạt Ta, con vua Tịnh Phạn (Shudodana) bên Ấn Độ.
Trước khi giáng phàm, Ngài sắp đặt thế nào cho những vị Đệ tử của Ngài mấy kiếp trước, đi đầu thai hoặc một lượt với Thái tử hoặc trước hay là sau một vài năm, đặng khi Ngài ra thuyết pháp thì mấy vị ấy trở về với Ngài liền.
Nhờ Từ điện và Thần lực của Ngài mà nhiều vị Đệ tử lớn (người ta nói có tới cả ngàn) đắc quả La Hán và nhiều vị Đệ tử nhỏ đắc quả Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm.
SỰ HI SANH CỦA ĐỨC THÍCH CA
Kinh sách Phật đều có nói đến sự hi sanh của Đức Thích Ca, như là: lìa ngai vàng điện ngọc, bỏ cung phi mỹ nữ vào rừng sâu tu luyện đặng sau ra độ thế. Ngoài Quần Tiên Hội thì không một ai biết được Thái tử tu hành cách nào trong rừng sâu của Hi Mã Lạp Sơn, trong sáu năm. Chẳng phải Ngài nhờ tham thiền và tri ra thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên mà thành Phật đâu. Đâu có dễ dàng như thế đó. (Xin xemNhững chuyện Thần quyền và Thần bí trong đạo Phật của tôi).
Lấy một việc trước mắt mà nói: Đức Di Lạc Bồ Tát hay là Đức Mết-trai-da (Maîtreya), đã 2.500 năm rồi mà vẫn ở ngôi Bồ Tát, chớ chưa đắc quả Phật. Vậy thì sự hi sanh của Đức Thế Tôn là như thế nào?
Cả chục triệu năm trước, những nhiệm vụ cao cả trong Quần Tiên Hội như Phật, Bồ Tát, Bàn Cổ đều do những Đấng Chí Tôn thuộc Hệ thống tiến hóa khác ở Kim Tinh qua đảm nhiệm.
Khi đúng ngày giờ mà nhơn loại phải sản xuất những vị Phật để giáo hóa chúng sanh thì chưa có một vị nào tiến hóa tới bực đó để lãnh trách nhiệm nặng nề của Cung thứ Nhì.
Thuở ấy có hai vị Đại tiên đồng bực tiến hóa với nhau:
- Một vị là Đấng Chí Tôn mà mình gọi là Đức Như Lai.
- Một vị nữa là Đấng Chí Tôn mà mình gọi là Đức Di Lặc.
Đức Như Lai tình nguyện xuống trần trước. Trong mỗi kiếp Ngài cố gắng luyện tập cho có một vài Đại hạnh theo luật Trời đã qui định. Ngài đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia liền liền, không hề nghỉ ngơi như người thường, sau khi bỏ xác phàm. Không biết Ngài đầu thai tất cả bao nhiêu kiếp. Túc Sanh Truyện thuật 550 kiếp của Ngài, đó là nói bóng dáng về sự tiến hóa của hình dạng và sự tiến hóa của Tâm linh, chớ không phải thật là những kiếp của Ngài đâu. Tuy nhiên có một điều, ta có thể quả quyết được là: Ngài chịu muôn vàn khổ hạnh mới chặt đứt được những chướng ngại dựng nên trong khi Ngài bước lần lên ngưỡng cửa của cõi Đại Niết Bàn. Ngài đã đạt được mục đích. Ngài đã làm một vị Phật của Giống dân thứ Tư. Đó mới thật là: SỰ HI SANH cao cả của Ngài.
TRƯỜNG HỢP CỦA ĐỨC THÍCH CA
KHÁC HẲN VỚI CÁC VỊ PHẬT ĐỜI TRƯỚC
Có một điều tưởng người học Đạo nên biết là: Trường hợp của Đức Như Lai khác hẳn với chư Phật đời quá khứ, có lẽ chư Phật đời vị lai nữa.
Theo lẽ thường thì tất cả mọi công việc của một vị Phật đều toàn thiện và một khi đã thành Phật rồi thì không trở xuống trần gian nữa, nhưng về trường hợp của Đức Thích Ca thì lại khác. Chẳng rõ nguyên nhân nào mà Ngài không đủ ngày giờ để hoàn thành vài điểm trong công việc quá năng nhọc của Ngài. Có lẽ tại những sự cố gắng trong nhiều thế kỷ vừa qua, lúc Ngài tu luyện để xứng đáng với nhiệm vụ cao cả sau nầy, chớ không phải là sự thất bại.
Thế nên Ngài tự nguyện để dính dấp một chút với cõi Trần đặng khi Đức Bồ Tát có việc cấp bách cầu khẩn thì Ngài xuống đặng chỉ bảo và giúp đỡ. Mỗi năm đúng ngày lễ Huê Sắc (Vesak) thì ngài giáng phàm một lần đặng ban ân huệ cho chúng sanh.
LỄ HUÊ SẮC LÀ LỄ CHI ?
Theo Kinh sách Phật phái Nam Tôn hay là Tiểu Thừa thì:
1)- Đức Bồ Tát giáng sanh vào ngày trăng tròn tháng Huê Sắc (Vesak) bên Ấn Độ. Tháng nầy đối chiếu với tháng Năm dương lịch (Mois de Mai) và tháng Tư âm lịch (nếu năm trước nhuần thì là tháng Ba năm sau).
2)- Ba mươi lăm năm sau (29 tuổi xuất gia, 6 năm tu luyện), Ngài đắc quả Phật cũng nhằm ngày trăng tròn tháng Huê Sắc (Vesak).
3)- Sau 45 năm truyền Đạo, Ngài bỏ xác phàm và nhập vô cõi Đại Niết Bàn cũng nhằm ngày trăng tròn tháng Huê Sắc (Vesak).
Thế nên tới ngày trăng tròn tháng Huê Sắc thì tín đồ Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Nam Tôn, nhứt là tại Tích Lan làm một lễ rất lớn để kỷ niệm Ba Điều tối quan trọng trong đời sống tại thế của Đức Thích Ca Mâu Ni. Ấy là :
1)- Ngày Đức Bồ Tát giáng sanh.
2)- Ngày Đức Bồ Tát chứng quả Phật.
3)- Ngày Đức Phật bỏ cõi Trần.
Các bạn nào có đọc Tạp chí Phật giáo ‘La Pensée Bouddhique’ đều thấy mỗi năm các hàng Phật tử Âu châu đều có tổ chức lễ Huê Sắc, thường thường là tại Ba Lê vào ngày trăng tròn tháng Năm dương lịch. Nhưng tôi xin nhấn mạnh rằng: GIỜ TRĂNG TRÒN MỚI ĐÚNG.
Đúng giờ trăng tròn thì Đức Phật hiện ra.
ÂN HUỆ CỦA ĐỨC PHẬT BAN LÀ CÁI CHI ?
Trên hai cõi: Tối Đại Niết Bàn và Đại Niết Bàn có những thần lực sức mạnh phi thường và rung động hết sức mau lẹ, trí con người không tưởng tượng nổi, vì chúng vượt qua tầm hiểu biết của chúng ta xa lắm, không biết ngần nào mà kể.
Nếu chúng đi ngang qua mình chúng ta thì chúng ta không cảm biết và cũng không rõ chúng từ đâu đến, mặc dầu chúng ta tiến hóa tới bực nào.
Nhưng tu hành tới bực Phật thì thần thông rộng lớn, đạo pháp cao cường; Ngài có quyền năng biến đổi nó ra vừa sức với nhơn loại rồi đem xuống cõi Trần, rồi ban rải cho chúng ta. Thần lực nầy không khác nào nước, khi gặp những vận hà thì nó chảy đi, nó thêm sức lực cho chúng ta, làm cho tâm hồn chúng ta thơ thới và yên tịnh trong một thời gian. Tôi xin lấy một thí dụ cụ thể để so sánh mới dễ hiểu.
Thần lực ở hai cõi: Tối Đại Niết Bàn và Niết Bàn giống như một luồng điện cả tỷ tỷ volts. Một luồng điện mạnh như thế mà vô mình ta thì thân thể ta sẽ tan ra tro bụi tức tốc. Nhưng phép thần thông của Đức Phật là một cái máy biến điện, nó biến đổi luồng điện nầy ra một thứ điện không yếu quá mà cũng không mạnh quá, nó chỉ vừa sức con người. Khi nó vô mình ta thì nó không phá hại cơ thể mà lại còn thêm sức cho các tế bào, làm cho chúng vui vẻ, phấn chấn và hăng hái làm những việc lành.
LỂ A-SA-LA HAY LÀ LỄ CHUYỂN PHÁP LUÂN
Ngoài cuộc lễ Huê Sắc, còn một cuộc lễ khác nữa mà ít ai nghe nói tới, bởi vì nó cử hành tại Cung của Đức Di Lặc và không có tánh cách công khai. Đây cũng là dịp để cho nhơn viên trong Quần Tiên Hội, chánh thức gặp gỡ nhau mỗi năm một lần nữa.
Lễ nầy là lễ A-Sa-La (Asala), chạy nhằm GIỜ TRĂNG TRÒN của tháng A Sa La, nhằm tháng Bảy dương lịch (Juillet). Đức Bồ Tát giảng về Tứ Diệu Đế và Đạo Bát Chánh cho Tiên Thánh và các Đệ tử nghe, để kỷ niệm ngày Phật thuyết pháp lần đầu tiên, gọi là Chuyển Pháp Luân tại Sarnath (Sạt-Na) gần Bê-Na-Rết (Bénarès).
Quí bạn muốn rõ nhiều về hai lễ nầy, xin đọc đoạn ‘La Sagesse dans Les Triangles’ (Đức Minh Triết trong Tam Giác), trong quyển ‘Chơn Sư và Thánh Đạo’ (Les Maîtres et le Sentier) của Đức Leadbeater.
BA ĐỨC PHẬT VỊ LAI CỦA BA GIỐNG DÂN CHÁNH:
GIỐNG DÂN THỨ NĂM – GIỐNG DÂN THỨ SÁU
VÀ GIỐNG DÂN THỨ BẢY.
- Đức Phật của Giống dân thứ Năm là Đức Bồ Tát Di Lặc (Seigneur Maîtreya).
- Đức Phật của Giống dân thứ Sáu là Đức Đế Quân KOUTHOUMI.
- Đức Phật của Giống dân thứ Bảy là Đức . . .
-
TAM THANH
CÁC VỊ BÀN CỔ (MANOUS)
Manou, dịch là Bàn Cổ, là một danh từ thuộc về chủng loại, để chỉ định những Đấng Cao Cả, cầm quyền chỉ huy. Các Ngài chia ra nhiều cấp bực, tùy theo nhiệm vụ. Các Ngài giống những vị Vương Đế được quyền tự do định đoạt. Các Ngài thuộc về Cung thứ Nhứt, Cung Hành Chánh, cho nên điều khiển sự tiến hóa của thiên nhiên. Các Ngài sửa đổi cục diện của thế giới, xây dựng và tàn phá lục địa, sanh hóa những Giống dân mới, kiểm soát vận mạng của các quốc gia, quyết định số phận của các nền văn minh và thỉnh thoảng xem xét sự hành động của các giống dân tộc, đặng sửa cán cân của thế giới cho thăng bằng.
1.- ĐỨC BÀN CỔ TRONG HÀNG TAM THANH
Đức Bàn Cổ trong hàng Tam Thanh, hiện giờ là Đấng Cao Cả, trông nom sự sanh hóa và sự tiến hóa của Giống dân Chánh thứ Năm. Người ta gọi Ngài là VAIVASVATA MANOU. Ngài còn giữ xác phàm và ở tại Hi Mã Lạp Sơn gần Đức Di Lặc.
Người ta thường hỏi: Tại sao khi sanh hóa một Giống dân thì Đức Bàn Cổ phải xuống phàm đầu thai? Tôi xin trả lời liền: Luật Hi Sanh và Luật Di Truyền luôn luôn hành động theo thiên nhiên, các loài vật đều phải tuân theo từ đời nầy qua đời kia, từ Thái dương hệ nầy tới Thái dương hệ nọ, vô cùng vô tận, chớ không phải riêng gì các giống dân mà thôi đâu.
V.- Đức Bàn Cổ của Giống dân thứ Tư còn hay chăng?
Đ.- Đức Bàn Cổ của Giống dân thứ Tư vốn ở Kim Tinh xuống. Hiện giờ Ngài còn giữ xác phàm người Trung Hoa ở tại Trung quốc. Người ta gọi Ngài là Đức CHAKSHUSKA MANOU.
NHỮNG CẤP BỰC BÀN CỔ
Chúng ta biết rằng Đức Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta điều khiển sự sanh hóa và sự tiến hóa của Hệ Thống Địa Cầu chúng ta gồm bảy Dãy Hành Tinh. Dưới quyền Ngài có những vị Bàn Cổ thuộc về nhiều cấp bực khác nhau. Xin kể về bốn cấp bực biết như sau đây:
1)- Cấp bực thứ Nhứt: Đức Bàn Cổ coi sóc sự sanh hóa một Dãy Hành Tinh (Manou d’une Chaîne Planétaire). Tất cả có bảy vị. Mỗi vị lo một Dãy Hành Tinh.
2)- Cấp bực thứ Nhì: Đức Bàn Cổ coi sự sanh hóa trong một Cuộc Tuần Hườn (Manou d’une Ronde). Tất cả có 49 vị. Mỗi vị lo cho một Cuộc Tuần Hườn.
3)- Cấp bực thứ Ba: Đức Bàn Cổ coi sóc sự sanh hóa các Giống dân trên một Bầu Hành Tinh (Manou d’un globe). Mỗi Cuộc Tuần Hườn có bảy vị.
4)- Cấp bực thứ Tư: Đức Bàn Cổ coi sóc sự sanh hóa một Giống dân Chánh (Manou d’une Race Mère). Trên mỗi Bầu Hành Tinh có bảy vị. Lẽ tất nhiên cấp bực trên điều khiển và phân phát công việc cho cấp dưới. Mỗi vị Bàn Cổ đều có nhiều vị Phụ tá, toàn là những Đấng Cao Cả. Tất cả đều lo phận sự mình cho đúng với Thiên Cơ.
SỰ THAY ĐỔI NGÔI VỊ
V.- Có phải là Đức Bàn Cổ của một Giống dân sau lên làm Bàn Cổ coi sóc sự sanh hóa trọn một Cuộc Tuần Hườn không?
Đ.- Không. Ngài còn phải trải qua nhiều cấp bực tức là phải tu hành thêm càng ngày càng lên cao.
Trước hết Ngài phải làm:
a)- Một vị Độc Giác Phật,
b)- Một vị Ngọc Đế,
c)- Một vị Phổ Tịnh Đại Đế.
Rồi phải trải qua những cấp bực mới kể ra trước đây. Không biết giữa hai cấp bực lớn có những cấp bực nhỏ không. Chỉ thấy nói một cách tổng quát mà thôi. Chúng ta không quan niệm nổi công việc của các Ngài.
2.- ĐỨC BỒ TÁT
(LE BODHISATVA, JAGAT GOUROU,
CHRIST, INSTRUCTEUR DU MONDE)
Mỗi Giống dân Chánh đều phải có một vị Bồ Tát, mặc dầu trình độ tiến hóa của nó thấp thỏi đến đâu.
Đức Bồ Tát Chưởng quản Cung thứ Nhì ở mấy cõi dưới. Ngài là Đức Chưởng Giáo cầm quyền dạy dỗ các hạng Thiên Thần, Tiên Thánh và Con người.
Chính là Ngài lập những Tôn giáo lớn ở dưới Trần tùy theo trình độ tiến hóa, tánh tình, phong tục và sự nhu cầu của mỗi sắc dân. Có khi Ngài cũng cậy một vị Chơn sư thay mặt cho Ngài.
Tôn giáo nầy khác với Tôn giáo kia chỉ tại cách trình bày Chơn lý mà thôi. Nhưng Tôn giáo là những kiếng màu của một cái lồng đèn mà ánh sáng bên trong là Chơn lý. Thế nên mới có câu tục ngữ: Rượu cũ trong những hũ da mới (Vin vieux dans Outres neuves).
Đức Bồ Tát [[2]] hiện kim là Đức Di Lặc (Seigneur Maîtreya); Ngài đã giáng phàm hai lần. Lần thứ nhứt tại Ấn Độ 2.400 năm trước đây lấy tên là Chúa Hài đồng Christna, múa hát với các nữ mục đồng Gori. Lần thứ nhì, tại Palestine, Ngài mượn xác Đức Jésus, nên người ta gọi Ngài là Jésus-Christ. Luôn luôn Ngài nhấn mạnh về giá trị của cá nhơn và sự hi sanh Bản ngã.
Lối 700 năm nữa, khi Giống dân Chánh thứ Sáu ra đời, Ngài sẽ giao chức Bồ Tát lại cho Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhì lên kế vị cho Ngài. Còn Ngài thì qua kỳ Điểm đạo lần thứ Tám, làm một vị Phật Đạo Đức, thế cho Đức Thích Ca. Ngài là Đức Phật thứ Năm của Giống dân thứ Năm. Còn Đức Thích Ca sẽ về cõi nào không rõ, đó là tùy ý Ngài, vì Đức Như Lai có quyền đổi qua Cung thứ Nhứt và tu hành thêm đặng làm một vị Ngọc Đế.
3.- ĐỨC VĂN MINH ĐẠI ĐẾ
(LE MAHA CHOHAN)
Ta biết rằng: Đức Thái Dương Thượng Đế phân làm Ba Ngôi. Thế nên sự cai trị quả Địa cầu chúng ta cũng chia làm ba khu vực lớn, dưới quyền điều khiển của ba Đấng Chí Tôn. Ba vị nầy không những là phản ảnh của Đức Thái Dương Thượng Đế mà thôi, thật sự lại còn là một sự biểu hiện của Ngài nữa.
Ba Đấng Chí Tôn nầy là :
1)- Đức Ngọc Đế,
2)- Đức Phật Đạo Đức,
3)- Đức Văn Minh Đại Đế.
1)- ĐỨC NGỌC ĐẾ nhập làm một với Ngôi thứ Nhứt của Đức Thái Dương Thượng Đế tại cõi Tối Đại Niết Bàn. Ngài là hiện thân của Ý chí của Đức Thái Dương Thượng Đế tại cõi Trần.
2)- ĐỨC PHẬT ĐẠO ĐỨC nhập làm một với Ngôi thứ Nhì của Đức Thái Dương Thượng Đế tại cõi Đại Niết Bàn. Ngài ban rải sự Minh triết Thiêng liêng cho nhơn loại.
3)- ĐỨC VĂN MINH ĐẠI ĐẾ nhập làm một với Ngôi thứ Ba tại cõi Niết Bàn. Ngài điều khiển sự Hoạt động Thiêng liêng. Ngài là cánh tay của Đức Thái Dương Thượng Đế để làm công việc của Thượng Đế tại cõi Trần.
Đức Ngọc Đế là Chủ tể của khu vực thứ Nhứt, tức là Cung thứ Nhứt.
Đức Phật Đạo Đức là Chủ tể của khu vực thứ Nhì, tức là Cung thứ Nhì.
Đức Văn Minh Đại Đế là Chủ tể của khu vực thứ Ba, gồm năm Cung: Cung thứ Ba, Cung thứ Tư, Cung thứ Năm, Cung thứ Sáu và Cung thứ Bảy.
Đức Văn Minh Đại Đế dùng thần lực để thúc đẩy nhơn loại tiến triển trên con đường đã vạch sẵn. Ngài coi sóc sự văn minh tiến bộ của con người. Đối với ngài thì tương lai của nhơn loại là cuốn sách đã giở ra để trước mặt Ngài.
ĐẠI DIỆN CỦA ĐỨC NGỌC ĐẾ và
ĐẠI DIỆN CỦA ĐỨC PHẬT ĐẠO ĐỨC
Công việc của Đức Ngọc Đế chỉ xuống tới cõi Niết Bàn mà thôi, còn công việc của Đức Phật chỉ có xuống tới cõi Bồ Đề, chớ không xuống tới mấy cõi thấp được. Nhưng nếu không có công việc của hai Đấng Chí Tôn nầy ở mấy cõi cao thì công việc ở mấy cõi dưới không thể nào thi hành được.
Thế nên hai Đấng Chí Tôn có mỗi vị một đại diện ở mấy cõi dưới.
Đại diện của Đức Ngọc Đế là Đức Bàn Cổ.
Đại diện của Đức Phật là Đức Bồ Tát.
Đức Bồ Tát cũng nhập làm một với Ngôi thứ Nhì và Ngài cũng thay mặt cho Ngôi thứ Nhì tại cõi Trần nữa.
Người ta tỷ dụ:
Đức Bàn Cổ là đầu óc,
Đức Bồ Tát là trái tim, còn
Đức Văn Minh Đại Đế là bàn tay có năm ngón của Con người Thiêng liêng.
Ba Ngài điều khiển quyền lực của Đức Thái Dương Thượng Đế tại cõi Trần.
Xin xem hình dưới đây:
BẢY VỊ ĐẾ QUÂN
Bảy vị Đế Quân coi sóc bảy Cung.
Theo Thông Thiên Học thì:
1)- Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhứt là Đức MORYA.
2)- Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhì là Đức KOUTHOUMI.
3)- Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Ba là VÉNITIEN
4)- Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Tư là Đức SÉRAPIS.
5)- Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Năm là Đức HILARION.
6)- Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Sáu là Đức JÉSUS.
7)- Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Bảy là Đức COMTE DE SAINT GERMAIN.
Xin quí bạn chú ý tới điều nầy: có nhiều vị được 6 lần và 7 lần Điểm đạo, ngang hàng với các Đế Quân và Tam Thanh, song không lãnh nhiệm vụ nào ở tại Thiên Đình, bởi vì các Ngài có những phận sự khác.
NHỮNG VỊ CHƠN TIÊN
Dưới những vị Đế Quân là những vị Chơn Tiên được năm lần Điểm đạo. Ấn Độ giáo gọi các Ngài là Jivanmukta hay là Atitta, những vị đã được giải thoát, còn Phật giáo gọi là A Sơ Ca (Aseka), nghĩa là không còn làm Đệ tử. Đối với con người thì Chơn Tiên trọn sáng trọn lành, không còn cái cho học hỏi trong Dãy Hành Tinh nầy nữa. Có vị giúp việc trong bảy Cung, có vị về cõi khác bởi vì có:
BẢY ĐƯỜNG TIẾN HÓA TRƯỚC MẶT CHƠN TIÊN
Một khi được năm lần Điểm đạo thì Con người thành một vị Siêu phàm. Trước mặt Chơn Tiên có bảy đường tiến hóa khác nhau. Chơn Tiên có quyền chọn lựa con đường hạp với mình. Bảy Đường đó là:
1)- Hoặc ở lại cõi Trần lãnh một nhiệm vụ trong Quần Tiên Hội.
2)- Hoặc nhập vào Niết Bàn, không biết mấy ngàn triệu năm sau, làm một vị Thượng Đế giáng phàm (Avatar) ở một Vũ trụ khác. Người ta gọi là mặc áo Đạt Ma Ca Da (Dharmakaya).
3)- Hoặc nhập vào Niết Bàn ở vào một trạng thái thiêng liêng người ta gọi là mặc áo Sam Bô Ga Ca Da (Shambhogakaya), không biết là như thế nào?
4)- Hoặc vào hàng Niệt Ma Da Ca Da (Nirmanakaya), sanh ra những Thần lực để cho Quần Tiên Hội dùng.
5)- Hoặc vào hàng tiến hóa của các vị Đại Thiên Thần.
6)- Hoặc lo lập Dãy Hành Tinh thứ Năm, sau thế cho Dãy Trái Đất.
7)- Hoặc vào Bộ Tham Mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế, đem chỉ thị của Ngài đến khắp các Dãy Hành Tinh.
BỐN HẠNG ĐỆ TỬ - TỨ THÁNH
Dưới Chơn Tiên là những vị Đệ tử được từ một đến bốn lần Điểm đạo.
Những vị nầy tuy chưa trọn lành, song được vào Quần Tiên Hội là vì theo luật Thiên Đình, mấy vị nầy chia sớt công việc nặng nhọc của Tiên Thánh và sẽ tiến lên tới bực Siêu phàm.
1)- Vị Đệ tử được bốn lần Điểm đạo, Ấn Độ giáo gọi là Parahamsa, Đại Thiên Hạc (Con hạc lớn). Phật giáo gọi là La Hán.
2)- Vị Đệ tử được ba lần Điểm đạo. Ấn Độ giáo gọi là Hamsa, Thiên Hạc. Phật giáo gọi là Anagamin (A Na Hàm – Bất Lai).
3)- Vị Đệ tử được hai lần Điểm đạo, Ấn Độ giáo gọi là Koutichaka, người đã dựng lên một túp lều, Phật giáo gọi là Sakadagamin (Tư Đà Hàm – Nhứt Lai).
4)- Vị Đệ tử một lần Điểm đạo, Ấn Độ giáo gọi là Pavrijataka, người không có chỗ ở nhứt định, người đi ta bà, vô trú. Phật giáo gọi là Sotapanna, Tu Đà Hườn.
Danh từ tuy khác nhau, nhưng chúng vẫn chỉ định những cấp bực in như nhau, bởi vì thí sanh có những đức tánh của Luật Trời qui định cho cấp bực nào thì mới được vào cấp bực đó. Trên Thiên Đình không bao giờ thiên vị một ai.
Thí sanh phải trải qua một cuộc thi gồm đủ tài và đức.
Tài là đủ sức làm nhiệm vụ sẽ giao phó cho mình tùy theo cấp bực.
Đức là có đủ những tánh tốt đã qui định cho mỗi cấp bực, nhưng người ta trọng cái đức hơn cái tài. Tài kém một chút mà có Đức lớn thì sẽ chấm đậu.
Thi đậu rồi mới được Điểm đạo, tức là chỉ máy huyền vi đặng mở cửa những cõi Trời.
V.- Ngôi thứ trên Thiên Đình đã chấm dứt. Vậy thì sự tiến hóa có đứt đoạn hay không ?
Đ.- Không. Bởi vì ngoài các vị Đệ tử được Điểm đạo còn ba bực Đệ tử chưa được Điểm đạo.
BA BỰC ĐỆ TỬ CHƯA ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO
1)- Trên hết là Con của Thầy (Fils du Maître). Vị nầy sẽ được Điểm đạo trong một thời gian sau đó.
2)- Kế đó là Đệ tử Thiệt thọ (Elève Accepté).
3)- Thứ ba là Đệ tử Nhập môn (Elève Probationnaire).
NGƯỜI CÓ LÝ TƯỞNG
(IDEALISTES)
Muốn được Chơn sư thâu làm Đệ tử Nhập môn thì phải là người có lý tưởng, sống đúng với lý tưởng của mình và tập luyện đặng có đủ bốn đức tánh sau nầy:
1)- Phân biện
2)- Đoạn tuyệt
3)- Hạnh kiểm tốt
4)- Lòng Từ ái.
Những sách mà quí Huynh nên xem đặng có một quan niệm chắc chắn về đường Đạo, những Đức tánh cần thiết cho người Đệ tử và tại sao nên sớm bước vào cửa Đạo là:
1)- Dưới ChơnThầy
2)- Trước Thềm Thánh Điện
3)- Con đường của người Đệ tử
4)- Người phụng sự
5)- Giảng lý Dưới Chơn Thầy
6)- Giảng lý Tiếng Nói Vô Thinh
7)- Giảng lý Ánh Sáng Trên Đường Đạo
Theo lời của những vị Cao đồ của Chơn sư thì ai quyết chí sống như lời dạy trong những sách đó thì tới một ngày kia, khi đã thành công, sẽ được Điểm đạo lần thứ Nhứt, tức là cửa Đạo sẽ mở rộng đặng rước vào. Rồi từ đó sẽ tiến lên cao.
SỰ THAY ĐỔI NGÔI VỊ TRONG QUẦN TIÊN HỘI
V.- Vì sao lối 700 năm nữa Đức Di Lặc Bồ Tát sẽ làm một vị Phật?
Đ.- Theo Luật Trời thì mỗi Giống dân Chánh phải có:
Một vị Phật
Một vị Bàn Cổ
Một vị Bồ Tát
Một vị Văn Minh Đại Đế
Một vị Đế Quân
Một số Chơn Tiên và Đệ tử.
Khi một Giống dân Chánh gần tàn rồi thì có sự thay đổi Ngôi vị trong Quần Tiên Hội, từ bực Phật sắp xuống, trừ ra Đức Ngọc Đế và ba vị Độc Giác Phật.
1)- Vị Phật Đạo Đức của Giống dân gần tàn, có quyền đổi qua Cung thứ Nhứt và tu hành thêm đặng làm một vị Ngọc Đế, cai trị một Bầu Hành Tinh, được chín lần Điểm đạo, hoặc lãnh nhiệm vụ khác trong Bộ Tham Mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế, như Đức Phật Dipankara (Phật Đỉnh Quang).
2)- Đức Bàn Cổ của Giống dân gần tàn sẽ qua kỳ Điểm đạo thứ Tám và làm một vị Độc Giác Phật.
3)- Đức Bồ Tát của Giống dân gần tàn sẽ qua kỳ Điểm đạo lần thứ Tám và làm một vị Phật Đạo Đức.
4)- Đức Văn Minh Đại Đế của Giống dân gần tàn sẽ qua kỳ Điểm đạo lần thứ Tám, nếu ngài muốn làm một vị Phật Đạo Đức thì đổi qua Cung thứ Nhì; ngược lại bằng Ngài muốn làm một vị Độc Giác Phật thì đổi qua Cung thứ Nhứt, và về cõi nào tùy ý Ngài muốn.
AI THẾ CHO TAM THANH
Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhứt sẽ lên thế vị Đức Bàn Cổ. Ngài sẽ coi sóc sự sanh hóa Giống dân Chánh mới, sau khi qua kỳ Điểm đạo lần thứ Bảy.
Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhì sẽ lên kế vị cho Đức Bồ Tát. Ngài sẽ giáo hóa Giống dân Chánh mới, sau khi qua kỳ Điểm đạo lần thứ Bảy.
Một vị Đế Quân trong năm vị còn lại sẽ lên kế vị cho Đức Văn Minh Đại Đế. Ngài sẽ lo cho sự văn minh tiến bộ của Giống dân Chánh mới, sau khi qua kỳ Điểm đạo lần thứ Bảy.
Bốn vị còn lại cũng qua kỳ Điểm đạo lần thứ Bảy và sẽ lãnh nhiệm vụ khác.
AI THẾ CHO BẢY VỊ ĐẾ QUÂN?
Bảy vị Chơn Tiên qua kỳ Điểm đạo lần thứ Sáu sẽ lên thế cho bảy vị Đế Quân đặng coi sóc bảy Cung. Còn những vị khác, sau khi được Điểm đạo lần thứ Sáu rồi thì có những nhiệm vụ mới.
NHỮNG VỊ CHƠN TIÊN
Còn những vị La Hán đắc Đạo làm những vị Chơn Tiên. Các Ngài được quyền chọn lựa một trong bảy con đường tiến hóa mở ra trước mặt Ngài. Sự kiện nầy cứ tiếp tục như thế cho tới Giống dân thứ Bảy.
Sau khi Giống dân thứ Bảy tàn rồi thì trái đất sẽ nhỏ lại, và chỉ còn chứa một số nhơn vật theo con đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần Hườn mà thôi. Đã tới thời kỳ nghỉ ngơi của một Bầu Hành Tinh.
Huyền bí học gọi thời kỳ nầy là thời kỳ Lu Mờ (Période d’obscuration) chớ chưa phải là lúc Dãy Địa Cầu tan rã (Pralaya d’une chaîne planétaire). Ngày sau, đúng ngày giờ thì nhơn vật của quả Địa Cầu sẽ được di chuyển qua Bầu thứ Năm là Bầu Thủy Tinh đặng tiếp tục tiến hóa thuộc về một giai đoạn mới.
HỘI LONG HOA VÀ TẬN THẾ
Nhiều bạn có hỏi tôi về Hội Long Hoa và Tận thế. Tôi vẫn trả lời: Thật sự tôi không biết Hội Long Hoa là Hội chi? Và chừng nào nó sẽ xảy ra. Hội Long Hoa có phải là Sự Phán Xét Cuối Cùng của quả Địa Cầu chúng ta, hay là Sự Phán Xét Cuối Cùng của một Dãy Trái Đất trong Cuộc Tuần Hườn sau là Cuộc Tuần Hườn thứ Năm. Không biết rõ thì làm sao giải thích được. Không nên làm cho người ta hiểu lầm mà phải mắc tội.
Còn về việc Tận thế, điều đó sẽ xảy ra khi Cuộc Tuần Hườn thứ Bảy chấm dứt. Chúng ta đang ở vào phân nửa Cuộc Tuần Hườn thứ Tư. Còn ba Cuộc Tuần Hườn rưởi nữa mới hết Cuộc Tuần Hườn thứ Bảy. Không biết còn mấy chục triệu năm nữa, chớ không phải vài ba ngàn năm đâu. Xin các bạn an lòng, lo tu niệm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét