NHÂN LOẠI TRÊN ĐỊA CẦU - CÁC GIỐNG DÂN


Hiện tại trên Địa Cầu người ta chia các giống dân theo màu da, như da đen, da vàng, da trắng, v.v. . . và công nhận dân da trắng thông minh hơn hết, khôn ngoan hơn người xưa. Khoa học vật chất lại tiến bộ, họ phát minh được nhiều điều mới lạ đến nỗi dám đại ngôn là nhơn loại sẽ cướp quyền tạo hóa. Nhưng khi các nhà khảo cổ tìm gặp những di tích của thời kỳ xa xưa như các xác ướp còn nguyên vẹn, không rõ ướp bằng chất thuốc gì, những hột lúa mì trong các ngôi mộ cổ, đã mấy ngàn năm, đem ra gieo vẫn mọc lên tươi tốt. Các kiến trúc phi thường như những Kim-Tự-Tháp ở Ai Cập, đền Đế-Thiên Đế Thích ở Cao Miên, v.v. . . , người ta phải nói ngược lại là người xưa tài giỏi hơn người đời nay.

Thật sự, nhơn loại hồi xưa chưa tiến hóa nhiều, nhưng khi mỗi giống dân ra đời thì có các vị Tiên Thánh xuống Trần dìu dắt, chỉ dạy những điều cần thiết, nên ngày nay mới còn lưu lại một số ít kiến trúc phi thường, mầu nhiệm. Nhơn loại ban đầu thì dã man ngu dốt, rồi sau mới tiến bộ lần lần từ tinh thần đến vật chất và càng ngày càng hiểu rộng, thông minh hơn trước. Còn những di tích tinh xảo, huyền bí là do các vị Tiên Thánh xuống Trần cai trị, dạy dỗ, chỉ huy cho dân chúng tạo lập. Trí óc nhơn loại tầm thường không sao so sánh nổi với sự thông hiểu của các vị đã thoát ngoài vòng Luân hồi, Nhân quả, đừng nói chi đến đấng Tối Cao. Khi nào các sự suy yếu, bệnh tật, răng long, đầu bạc, sự già, sự chết còn đến với nhơn loại, thì con người còn thấy rõ là không sao qua được Luật Trời. Muốn có được những quyền năng như các vị Tiên, Thánh, con người phải trải qua 7 Cuộc Tuần Hoàn, nhưng bây giờ Linh Hồn nhơn loại tại Địa Cầu nầy mới đi qua xong 3 Cuộc Tuần Hoàn, và hiện chúng ta đang ở giữa Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư. Hễ qua một Cuộc Tuần Hoàn, tức là qua một vòng 7 bầu của một Dãy Hành Tinh, thì Linh Hồn mở mang sáng suốt thêm lên nên xác thể cũng tiến lên, càng mảnh mai, đẹp đẽ, nhạy cảm hơn để tương xứng với Linh Hồn. (Xin xem kỹ lại quyển : Nguồn Gốc Nhơn Loại.)

Dãy Địa Cầu tuy có 7 bầu, nhưng hai bầu A và G thì bằng chất Thượng Thanh Khí thấp (Matière mentale inférieure), hai bầu B và F thì bằng chất Thanh Khí (Matière astrale), nên mắt phàm không thấy được 4 bầu nầy; chỉ có 3 bầu: C (Hỏa Tinh), D (Địa Cầu), và E (Thủy Tinh) thì bằng chất Hồng Trần, nên khoa Thiên Văn mới thấy được.

Xác thể của 7 loài ở Hành Tinh nào thì sẽ được tạo bằng chất khí của bầu đó, cho nên ở bầu A và G nó được tạo bằng chất Thượng Thanh Khí thấp, nhơn loại hoạt động trong thể Hạ Trí chớ không cần Vía và Xác Thịt; tại bầu E và F, tạo bằng chất Thanh Khí thì nhơn loại hoạt động trong thể Vía, và tại các bầu C (Hỏa Tinh), D (Địa Cầu), E (Thủy Tinh), nhơn loại mới có Xác thân Vật chất để hoạt động tại cõi Trần.

Nơi đây, chúng tôi chỉ nói chuyện nhơn loại tại Địa Cầu, còn về bầu Hỏa Tinh và Thủy Tinh, khi có dịp chúng tôi sẽ nói đến.

Hiện giờ, Linh Hồn nhơn loại đang sinh hoạt tại Địa Cầu, đây là lần thứ tư. Ba lần trước thì thuộc về ba Cuộc Tuần Hoàn đã qua, xác thịt nhơn loại không giống như hình dạng ngày nay.



CUỘC TUẦN HOÀN THỨ NHỨT

(Tại Địa Cầu)

Vật Chất ở Địa Cầu cứng lần lần, nhưng nhiệt độ quá cao; có những hồ, ao, biển cả và những đám mưa kim loại tuôn xuống. Địa cầu còn là một bầu lửa, bùn sình đang sôi. Nhơn loại lúc bấy giờ đang hoạt động trong một xác thân bằng chất dĩ thái, giống như một lùm mây, trôi nổi bình bồng. Họ rút thêm chất hơi và dĩ thái bao quanh mình. Họ hút những chất khí đang sôi để làm vật thực. Họ sanh hóa bằng cách phân thân và sống rất lâu. Không khí nóng trên 3.500 độ.

CUỘC TUẦN HOÀN THỨ NHÌ

Khi Hồn Nhơn loại trở lại Địa Cầu lần thứ nhì, thì nhiệt độ ở Địa Cầu sụt xuống rất thấp; loại đồng thau hồi trước là chất lỏng, nay lần lần đặc lại. Có một lớp đất mỏng bao phủ ở gần hai đầu Địa Cầu. Xác thân nhơn loại cũng đông đặc lại như chất keo, nên biến đổi hình dạng rất dễ dàng. Bà Blavatsky gọi nó là những ổ bánh nho, vì nó có những cục u kỳ dị nhô lên để dùng làm tay chơn. Lúc đầu mấy cục u nầy ló ra lòng thòng rồi thun vô, như tác động của con vi trùng amibe, đến sau nó không thun vô nữa. Nhiều người thân xác còn nhẹ nhàng, tinh vi đến nỗi có thể bay lượn trên bầu không khí nặng nề lúc đó. Những người khác thì lăn tròn để đi tới chớ không bò trườn, nhưng chẳng có ai đứng được nếu không có sự giúp đỡ. Phía trên thân mình có một cái miệng để hút vật thực. Thường thường, nó bám vào mình đồng chủng để hút như đỉa hút máu. Kẻ nào bị nó hút thì chỉ còn cái bộng và chết luôn. Họ có bàn tay như tấm ván. Khi vui mừng thì kêu vang lên như tiếng kèn.

Lần hồi hình dạng xác thân bớt kỳ dị, họ biết bò trên mặt đất như con sâu; đến sau, ở gần vùng Bắc cực, con người có tay chân rõ rệt, nhưng chưa đi đứng được và tỏ ra có chút ít khôn ngoan.

Họ được một vị Barishad gom lại một hòn đảo, dạy cho họ ăn cỏ chớ không hút máu đồng loại nữa. Họ bắt đầu mở vị giác. Dưới đáy lỗ miệng lần lần sâu xuống và trở thành bao tử. Khi có vật gì không hạp mà lọt vào miệng thì bao tử lộn ngược lên cho vật đó lọt ra ngoài và họ không đau đớn gì cả.

Họ sanh sản bằng cách nảy chồi. Một cục u mọc trên xác thân, ít lâu sau rớt ra và sống độc lập thành một người khác.

Sự hiểu biết của họ còn bông lông và mơ hồ.

Hết Cuộc Tuần Hoàn thứ hai nầy, con người mới thành người thiệt thọ. Bầu không khí nặng nề và ngộp thở, giúp cho thảo mộc phát triển mau lẹ. Nhiều loại cỏ to và cao đến 12 thước, mọc sum sê dưới bùn nóng, thành những khu rừng rậm. Loại thảo mộc nầy sau chôn vùi xuống đất, đến nay thành ra những lớp than đá.

Vào cuối Cuộc Tuần Hoàn nầy, một phần trái đất đã nhô lên, cứng rắn và ấm áp. Người ta nghe những tiếng kêu rắc rắc to lớn, có lẽ là do sự co rút của đất cát, và mỗi ngọn núi là một hỏa diệm sơn đang cháy.



CUỘC TUẦN HOÀN THỨ BA



Đến Cuộc Tuần Hoàn thứ ba, tại Địa Cầu, Xác thân con người lần lần giống với Xác thân hiện nay, nhưng to lớn, giềnh giàng, thô kịch. Vì mới tập đứng nên đi chưa vững, khi bị rượt hay sợ hoảng thì ngã xuống và chạy bốn cẳng. Thân mình bắt đầu mọc lông mao và lông tơ. Mắt nhỏ và dang xa nhau, nên họ có thể dòm ngang được dễ dàng. Hàm dưới thật to, gần như không có trán và giống như cuộn thịt dồi. Đầu ngã ra sau một cách kỳ lạ. Cánh tay thật dài. Bàn tay, bàn chân to lớn và dị kỳ. Gót chân dài ra sau nên đi tới đi lui đều dễ dàng, mau lẹ, nhờ có con mắt thứ ba mọc phía sau đầu. Ngày nay nó đã ẩn vào trong, biến thành cái hạch tại đỉnh đầu, gọi là Tùng-quả-tuyến (glande pinéale).

Thời kỳ nầy con người mới mở lý trí nhưng chỉ về tình dục và bản năng. Họ chưa biết dùng lửa và chưa biết đếm. Họ ăn thịt thứ nhớt lầy thuộc loài bò sát, nhưng họ cũng đào thứ nấm mọc dưới đất để ăn.

Giữa Cuộc Tuần Hoàn thứ ba, khi nhơn loại sanh sản thêm đông, chiếm được nửa mặt Địa cầu, thì bắt đầu phân chia nam nữ. Lúc bấy giờ, Đức Bàn Cổ mới đưa một nhóm Linh Hồn nhơn loại ở bầu D của dãy Nguyệt Tinh đến đầu thai vào giống người nói trên.

Lần lần lớp con cháu không giống lớp trước, hình vóc nhỏ hơn, sớ thịt khít khao hơn, màu da cũng sáng hơn, tạo thành hai giống người.

Họ thường gây ra chiến tranh với nhau. Giống người to lớn tìm thế bắt người nhỏ vóc để ăn thịt. Còn giống người nhỏ khôn ngoan hơn, nên không bao lâu, họ thắng được người vóc to và cai trị được tất cả dân nầy.

Trong Cuộc Tuần Hoàn thứ 3 nầy, tốp Thú thứ hai được đầu thai làm nhơn loại. Thuở ấy, thú vật đều có vảy, loài chim cũng có vảy chớ không có lông vũ. Hình dạng không giống bây giờ, dường như thân mình loại thú nầy ráp vào đầu loại thú kia. Chúng nó nửa chim, nửa loài bò sát, thật lạ kỳ.

Địa cầu cũng chưa ổn định, còn xảy ra những cuộc động đất và núi lửa phun lên. Đời sống rất khó khăn. Hình trạng đất đai rất khác lạ. Núi dường như quá cao không thể tưởng tượng nổi. Những thác nước hùng vĩ phi thường. Những cơn gió trốt mạnh mẽ thường xảy ra.

Giống dân chánh thứ nhứt và thứ nhì, xác thân chưa cứng rắn nên sanh sản bằng cách chia hai, thành hai người. Đến giống dân thứ ba nầy thì sanh sản có nhiều cách như đâm chồi hoặc rịn ra chất nhựa như mồ hôi, khi đông đặc lại thành một người mới, hay noãn sanh, nghĩa là con người đã được tạo thành ở trong cái trứng. Nhơn loại lúc nầy còn là ái nam, chưa phân biệt rành nam, nữ, mặc dầu có một bộ phận phát triển hơn bộ phận kia. Nhơn loại bắt đầu có văn hóa thô sơ.



CUỘC TUẦN HOÀN THỨ TƯ



Khi Linh Hồn của 7 loài đi giáp vòng thứ ba thì được nghỉ một thời gian rồi khởi đi Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, cũng từ bầu A, B, rồi đến C là Hỏa Tinh. Khi đến bầu D là Địa Cầu lần thứ tư nầy thì hình dạng 7 loài thay đổi khác trước rất nhiều. Hồn thú bây giờ không còn được đầu thai vào xác Nhơn loại nữa. Con Người bắt đầu bước vào đường Đạo và học ôn lại các điều đã học ở ba Cuộc Tuần Hoàn trước. Điều nầy cốt ý giúp các Linh hồn chậm bước có dịp để theo kịp đồng loại của mình.

Giống dân chánh thứ Nhứt ở trong cái Phách bằng dĩ thái chớ không có Xác thịt, để ôn lại bài học của Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhứt. Giống dân chánh thứ Nhì thì giống hình ổ bánh nho, để ôn lại sự kinh nghiệm của Cuộc Tuần Hoàn thứ Hai.

Giống dân chánh thứ Ba học ôn Cuộc Tuần Hoàn thứ Ba. Người ta có thể nói: Giống dân chánh thứ Tư mới thật hạp với Cuộc Tuần Hoàn thú Tư.



GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ NHỨT



Lúc ban đầu mặt Địa Cầu bị xáo trộn ghê gớm: núi ngã, đất động, hỏa sơn phun lửa, sóng biển to lớn phi thường, tuyết, băng, phún thạch to như núi rung chuyển. Khắp nơi, lửa cháy rực trời; bảo tố, vòi rồng cuốn nước, gió lốc tàn phá cả mặt đất. Cảnh tượng hỗn độn như Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhứt.

Cảnh hỗn độn nầy cứ tiếp diễn không ngừng đến 200 triệu năm, sau đó mới có định kỳ và cách khoảng nhau rất lâu. (Giáo Lý Nhiệm Mầu III, trang 281).

Trong vòng 300 triệu năm, các vị Ngũ Hành phải bận lo tạo hình thể các loài Kim Thạch, Thảo Mộc và các Thú Cầm bực thấp. Các Ngài dùng các mảnh vỏ còn sót lại của 3 loài nầy hồi ba Cuộc Tuần Hoàn trước để tạo những hình thể mới tốt đẹp hơn. Do đó mới sanh ra đủ những quái vật tạp chủng, nửa người, nửa thú. Nhiều loài bò sát sanh ra hình dáng dị kỳ.

Khi thời kỳ hỗn độn gần chấm dứt, vài vị Thần Barishads đến và đùa các hình thể thấp kém qua một bên để có chỗ cho loài người và các hình thể cao đẹp sinh sống.

Vùng đất thứ nhứt nổi lên giữa Đại Dương, nước ấm áp và chuyển động. Đó là ngọn núi Mérou, người ta gọi là Poushkara, mặc dầu, thật ra là tên của Đại lục thứ Bảy. Đây là Địa Linh Bất Diệt, hiện nay nó ở trong Sa mạc Gobi. Người ta cũng gọi là đất của Thiên Thần, là Bạch Đảo, Shvetadvipa, đất Trung Ương, và có khi là Jamboudvipa. Người Parsis gọi là Airyana Vaejo và nhìn nhận là nơi sanh của nhà Tiên Tri Zarathoustra.

Từ Thánh Địa, núi Mérou có 7 mũi đất cao ló ra ngoài biển. Mỗi giống dân đều khởi sanh ra tại Thánh Địa nầy, rồi sau mới được đưa sang nơi khác để lập nghiệp.

Khí hậu ở đây luôn luôn mát mẻ, dịu hiền như lúc mùa XUÂN.

Các Thần Barishads Pétris dùng Ý Chí tách đôi cái Phách của các Ngài và để cái Phách thứ 2 nầy dang ra xa, nổi bình bồng trong không khí và lờ đờ trên mặt biển đang sôi sục. Linh hồn nhơn loại nhập vào cái Phách nầy, hạ xuống Trần để trở thành người. Ấy là giống dân chánh thứ nhứt. Họ sanh sản bằng cách phân thân hoặc đâm chồi. Khi hình vóc họ phát triển to lớn như cũ rồi thì họ phân thân nữa. Ban sơ, hai phần bằng nhau, sau lại, một phần lớn, một phần nhỏ. Phần nhỏ là con cái, cứ lớn lần lên, khi đúng sức thì tách ra một phần nhỏ khác. Họ không chết. Họ mở thính giác trước nhất. Nước và lửa không hề làm hại họ được.



GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ NHÌ



Giống dân chánh thứ nhứt trải qua một thời gian rất lâu, không ai biết được rõ, rồi mặt đất được ổn định. Một vùng đất rất rộng nổi lên vòng quanh các mũi đất của lục địa cũ. Lục địa thứ nhì nầy gọi là Hyperboréen, hay là Blaksha. Nó gồm miền Bắc Á Châu đến Groenland và Kamtchatka. Miền Nam là biển rộng, sóng bủa ầm ầm mà ngày nay là Sa-mạc Gobi, nối liền Spitsberg và Suède, Norvège tới đảo Anh Quốc. Khí hậu nóng nực, cây cỏ mọc rậm rạp. Đến khi phong thổ hạp với giống dân chánh thứ nhì thì các vị Thiên Thần mới làm ra một thể cứng hơn, bao bọc cái thể mềm của giống dân thứ nhứt. Như thế, đột nhiên giống dân thứ nhứt biến mất và trở thành giống dân thứ hai.

Giống dân nầy cảm thông được một phần nhỏ ý thức Bồ Đề và mở thêm xúc giác, nên họ được 2 giác quan là thính giác và xúc giác. Dân nầy được gọi là: Kimpouroushas, con của mặt trời và mặt trăng, nghĩa là của Lửa và Nước. Giống dân thứ nhì da như mạ vàng, có khi sậm lại như màu da cam. Hình dáng phần đông tương tợ như loài thú, những tốp khác có vẻ giống người. Họ bò, trườn, leo và kêu nhau bằng tiếng dịu dàng như tiếng sáo.

Lá rừng xanh chói, bông hình lục giác, màu sặc sỡ dưới ánh sáng mặt trời. Cảnh vật đầy nhựa sống, linh hoạt vô cùng. Thuở ấy, tất cả thân xác muôn loài đều trở nên cứng rắn theo thời gian.

Xác thân con người cũng cứng thêm nên không thể sanh sản bằng cách phân hai được nữa. Nơi lỗ chơn lông nhỉ ra những giọt nước mồ hôi nhớt lầy và trắng đục. Những giọt nước nầy cứng lần lần, nở lớn thêm và thành ra một con người mới. Người ta lúc nầy có hai bộ sanh dục mới tượng. Có nhiều dấu tích về cách sanh sản nầy trong các kinh Pourânas:” Tất cả sanh ra từ lỗ chơn lông của ông bà họ”. Họ là những người bán nam, bán nữ. Hiện nay thỉnh thoảng ta thấy có người ”lại cái” ; người đàn ông vẫn có hai vú, nhưng không dùng vào việc gì hết. Nhơn loại lúc ấy dân số còn bị hạn chế, nên các Thiên Thần phải nỗ lực giúp loài thú tiến lên loài người thật nhiều, trước khi cánh cửa bị đóng lại.



GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ BA

 Giống dân chánh thứ Ba là dân Lê-muy-ri (Lémurien) mà người Ấn-Độ gọi là Dânavas, thời kỳ học ôn lại bài học của Cuộc Tuần Hoàn thứ Ba.

Lúc nầy, tại biển miền Nam Plaksha đất nổi lên, ấy là đồng cát Gobi (Qua-Bích), đất Tây Tạng và Mông Cổ. Đồng thời dãy núi Hy-mã-lạp-sơn ở miền Nam cũng nổi lên, nối liền Hi-mã-lạp-Sơn đến Tích Lan, Sumatra, Úc Châu, Tasmanie và cù lao Pâques; đất bồi sang qua miền Tây đến Madagascar và nột phần Châu Phi; Norvège, Suède, Sibérie và Kamtchatka đều nổi lên. Các xứ nầy là Lục-địa thứ ba (Lémurie) của giống dân chánh thứ Ba. Nó dính liền với Đại-lục thứ Hai. Sau nhiều thế kỷ, lục địa khổng lồ nầy bị chia xẻ thành ra nhiều cù lao to lớn, rồi Châu Lémurie bị hỏa diệm sơn phun lửa, đất nứt ra và chìm xuống biển, chỉ còn lại mấy cù lao Australie và Madagascar. Dân Lémurie bị nạn lửa và ngộp thở, còn dân Ắt Lăn thì bị nạn nước lụt.

Giống dân chánh thứ Ba là Tổ tiên của dân da đen. Dân mọi Pydmée ở Phi Châu hiện thời là nhánh nhóc của giống dân chánh thứ Ba còn sót lại.

Nhánh thứ nhứt của dân nầy cũng sanh ra bằng những giọt mồ hôi và 2 bộ sanh dục mới tượng. Đầu, hình tròn dài như trứng gà để đứng và có một con mắt ở trên chót; trán thì giống một khúc dồi và hàm răng nhô ra.

Nhánh thứ nhì thì xác thân cũng bằng mồ hôi hóa ra. Những giọt mồ hôi trở nên cứng và tròn. Mặt trời đốt nóng chúng nó. Mặt trăng làm cho chúng nó mát mẻ và uốn nắn chúng nó. Gió nuôi dưỡng chúng nó cho đến khi thành người. (Doctrine secrète, III, 20). Các xác thân mềm, lần lần có thêm một cái vỏ cứng hình trứng.

Nhánh thứ ba xác thân “lại cái” tượng hình trong vỏ trứng, càng ngày càng mỏng. Đứa nhỏ ở trong trứng như gà con, khi khảy mỏ, vỏ trứng bể thì nó chun ra ngoài, biết đi và chạy được.

Lần lần một bộ phận, âm hoặc dương trở nên lớn hơn bộ phận kia. Xác thân họ to lớn hơn người bây giờ nhiều. Thị giác bắt đầu mở. Ban đầu họ chỉ có một con mắt tại giữa trán. Đến sau họ có thêm 2 con mắt nữa, nhưng họ ít khi dùng đến cặp mắt nầy cho đến nhánh thứ bảy. Khi giống dân chánh thứ Tư gần sanh ra, thì loài người mới tập dùng cặp mắt nầy, vì con mắt thứ nhứt thục vô trong đầu, thành cục hạch gọi là Tùng Quả Tuyến (Glande pinéale). Nhánh thứ nhứt và thứ nhì tỏ sự vui mừng, đau đớn, thương yêu và giận hờn bằng tiếng la. Đến nhánh thứ Ba, họ nói tiếng độc âm. Họ dùng được 3 giác quan: Thính giác, xúc giác và thị giác.

Khi giống dân chánh Lê-muy-ri sanh đến nhánh thứ Tư thì cốt địa cầu nghiêng triền, khí hậu nóng nực của miền Bắc cực lại trở thành lạnh lẽo vô cùng, những nhánh nhóc của giống dân thứ Hai và các nhánh thứ nhứt, thứ nhì của dân chánh thứ Ba đều chết hết. Loài cây cối, thú cầm và loài người không còn to lớn nữa mà hình thù trở nên bé nhỏ. Các nhà Tự Nhiên Học đều nói rằng:”Thời đại Trung Tân Thế (Période Miocène) đảo Groenland và Spitzberg đều có khí hậu gần như miền Ôn đới.”

Nhánh thứ tư của giống dân chánh thứ Ba cũng ở trong trứng sanh ra, nhưng chừng sanh ra thì phân biệt nam, nữ liền. Từ ngày phân nam, nữ đến nay đã được hơn 16 triệu rưởi năm rồi. Tới khi nhánh thứ Tư gần tàn thì đứa nhỏ trong trứng nở ra lại yếu đuối, không đi đứng liền được.

Vài thế kỷ trước khi phân biệt nam, nữ thì có nhiều vị Thần Nguyệt Tinh (Barishads) đầu thai vào xác thể con người để kiến thiết cõi Hồng Trần. Những vị ở trong trứng sanh ra lúc sau cùng nầy (les derniers nés de l’oeuf ), rất tấn hóa. Da đỏ, ửng vàng, bóng ngời và xinh đẹp vô cùng. Tướng mạo oai phong, thân hình to lớn và đều đặn. Con mắt chính giữa trán long lanh, sáng rỡ như ngọn đèn, trái lại nhơn loại cấp bực thường thì mắt lờ đờ, mũi xẹp, càm to và đưa ra trước, trông thật dị hình.

Trước khi nhánh thứ Tư nầy được sanh ra thì các vị thần Barishads đưa 3 nhóm Linh Hồn từ dãy Nguyệt Tinh đến Địa cầu :

1/- Nhóm A, hơn 2 triệu Linh Hồn, hào quang màu da cam,

2/- Nhóm B, gần 3 triệu Linh Hồn, hào quang màu vàng,

3/- Nhóm C, hơn 3 triệu Linh Hồn, hào quang màu hường.

Nhưng nhóm A, Linh Hồn màu da cam, vì phách lối, chê các xác thân nhơn loại xấu xa, không chịu nhập Xác; chỉ có hai nhóm B và C, Linh hồn màu vàng và màu hường, vâng lời đầu thai vào nhơn loại và sửa đổi lần lần các hình dạng trở nên tốt đẹp, thành lập nhánh thứ Tư, giống xác thân Nhơn Loại hiện giờ. Còn nhóm A Linh Hồn màu da cam, đến sau cũng bị bắt buộc phải đầu thai, nhưng vì đi trễ nên hình thể vẫn còn thô kệch, thuộc về giống dân lạc hậu, xảo trá, xấu xa, còn phải trải qua nhiều cuộc thử thách đau đớn.

Trong khi đó thì Đức Ngọc Đế Sanat Koumara và 3 vị Đệ Tử (Người ta cũng gọi là 4 vị Hồng Quân) từ bầu Kim Tinh đến Địa Cầu. Ngài có đem theo 105 Linh hồn thường dân cho đầu thai vào đân chúng, cùng lối 30 vị Đại Thánh, đủ cấp bực, để giúp đỡ các Ngài. Ngài cũng đem theo lúa mì (froment), loài ong và loài kiến đến Địa Cầu. Lúa mì và mật ong là hai thứ thực phẩm bổ dưỡng nhất. Còn ong và kiến giúp cho cây cối kết quả mau lẹ. Ngày nay, các nhà bác học cũng chưa tri ra được nguyên nhân nào mà 2 loài nầy biết sống tập thể.

Thời kỳ nầy, có các vị Tiên Thánh ra đời làm vua, chỉ huy cho dân chúng xây dựng nhiều thành trì rộng lớn, cất được Đạo Viện Shamballa hùng vĩ, Đô thành thiêng liêng. Những di tích ấy, người ta nói là của dân Cyclope, hiện nay vẫn còn, để chứng tỏ sự oai hùng và khôn ngoan của người thuở đó. Họ dùng những tấm đá khổng lồ để xây đường mà tới đời nay chưa có vị kỹ sư nào tìm thế nhúc nhích được. Hiện giờ còn những tấm đá lớn, hễ đụng tới thì nó lúc lắc mãi; người ta gọi là Pierres branlantes. Đó là vấn đề mà khoa học tân tiến chưa giải nổi. Có người cho rằng: những tấm đá đó là những phương thế để giao thông cõi Trần với cõi Tiên của giống dân thứ Ba.

Khi sự phân chia nam, nữ đã xong thì có 7 vị Thần Nguyệt Tinh hoạt động cho sự tiến hóa tinh thần của nhơn loại. Các Ngài chia ra 7 khu vực tùy theo bản tánh đặc biệt 7 cung. Dân chúng sanh ra đông đảo ở rải rác khắp nơi.

Có 5 hạng người đến đầu thai tại Địa cầu là:

1/- Linh Hồn vừa thoát kiếp thú,

2/- Linh Hồn có Nhân thể bằng lằn gạch và đã có đầu thai rồi trên Địa cầu.

3/- Linh Hồn ở bầu Hỏa Tinh.

4/- Linh Hồn tiến hóa ở cõi Niết Bàn, giữa 2 dãy Hành tinh.

5/- Linh Hồn có Nhân thể toàn vẹn, từ bầu G, F và E của dãy Nguyệt Tinh đến.

Tới NHÁNH THỨ NĂM, trứng sanh ở trong lòng người mẹ. Qua nhánh thứ Sáu và thứ Bảy thì cách sanh sản như ngày nay.

Đến nhánh thứ Năm, các vị Thần Barishads đầu thai làm vua chúa, dạy dỗ dân chúng nghệ thuật và văn hóa. Các Ngài giúp dân chúng tạo nhiều đô thị lớn, hiện còn roi dấu như đô thị ở Madagascar, cất theo kiểu Si-lốp.

Qua đến lớp con cháu, vì không cần dùng con mắt trên đỉnh đầu, nên nó thụt vô thành Tùng Quả Tuyến, và hai con mắt ở hai bên mới khởi hoạt động.

Họ tập nhiều con thú to lớn có vảy để làm thú vật nhà. Họ ăn bất cứ là con thú gì, cho đến thịt người họ cũng không từ. Da họ đen sậm, thân hình to lớn, cao hơn ba bốn thước. Đầu hình trứng, càm to và dài, mặt trẹt, hai con mắt nhỏ ở hai bên đầu rất sáng nên họ ngó thấy bên tả, bên hữu đều dễ dàng. Con mắt sau đỉnh đầu giúp họ thấy phía sau, dĩ nhiên là nơi đây không có tóc. Chơn tay họ dài hơn chúng ta. Bàn tay và bàn chơn rất lớn. Gót chơn dài ra sau nên họ đi lui cũng dễ như đi tới trước. Họ mặc một tấm da rộng có vảy, giống như da con tây, (ngày nay nhờ đào đất tìm tòi mới thấy được dấu vết đó). Tóc ngắn, chung quanh đầu họ vấn một miếng da khác, có treo lòng thòng những hột cây rừng bóng ngời đủ màu: đỏ, xanh, vàng, tím, v.v. . . Nơi tay trái, họ cầm một cây gậy nhọn, cao ngang đầu, để hộ thân hoặc chiến đấu. Tay mặt họ nắm một đầu dây (thứ dây leo ở trong rừng) có cột theo một con thú, loại bò sát to lớn dị kỳ, giống như loại Xà-đầu-long. Họ tập những loại thú bò sát để đi săn thịt. (La Lémurie perdue, page 38, 39,

W. Scott Elliot).



NHÁNH THỨ SÁU



Những người thuộc về nhánh thứ Sáu của giống dân chánh thứ Ba, đáng được chú ý về màu da. Họ không đen hoặc nâu sậm như nhóm người nhánh thứ Năm, mà từ màu xanh đậm đổi ra xanh lợt. Khi giống dân gần tàn, đầu của họ cũng còn hình trứng, trán trợt. Lúc nầy có nhiều vị Đệ Tử Tiên đầu thai xuống Trần để giúp Đức Bàn Cổ lập ra giống dân chánh thứ Tư



NHÁNH THỨ BẢY



Những người thuộc nhánh thứ Bảy của giống dân chánh thứ Ba Lê-muy-ri, có màu da xám xanh, rồi lại đổi ra màu xám trắng. Mặt họ dài giống như những hình tượng của họ dựng tại cù lao Pâques. Tượng nầy cao 8 thước, vai rộng 2, 50m.

Ban đầu mặt họ dài như mặt ngựa, chót mũi nằm ở phần trên cái mặt. Khi nhánh thứ Bảy gần tàn thì chót mũi sụt xuống ngay chính giữa, khoảng từ đỉnh đầu đến càm. Trán luôn luôn giống như khúc dồi, về sau thì nó nhô cao hơn một chút.

Đầu của họ vẫn là hình trứng vì trán trợt. Môi dày và kỳ dị, mũi rộng và xệp.

Vóc hình càng ngày càng nhỏ lại và tay chơn giống người Mọi ngày nay.

Họ là những nhà kiến trúc kiểu xưa nhất. Họ có nghệ thuật thô sơ. Họ kết hôn với dân Moa-an (Rmoahals), nhánh thứ nhứt của giống dân chánh thứ Tư, Ăt-Lăn.

Những thành phố đầu tiên được xây dựng trong vùng núi non rộng rãi, bây giờ là đảo Madagascar.

Giống dân thuần túy Lê-muy-ri bây giờ không còn nữa. Những bộ lạc người Mọi đã lai giống với người Ắt-Lăn rồi.



GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ TƯ

Dân Ắt-Lăn - (Atlandes)



Giống dân Ắt-Lăn có 7 nhánh là:

1/- Rmoahal (Moa-an)

2/- Tlavastli (La-hoát-li)

3/- Toltèque (Tôn-téc)

4/- Touranien (Tu-ra-nhen)

5/- Sémite (Xê-mit)

6/- Akkadien (Ắc-ca-den)

7/- Mongol (Mông-cổ)



Giống dân chánh nầy mở mang tình cảm. Lục địa Ắt-lăn (Atlantide) đã bị tai biến bốn kỳ trọng đại, ngoài ra còn nhiều vụ nữa kém quan trọng hơn. Các vị vua Đạo Đức và các nhà sư Điểm Đạo đều biết trước và có cho dân chúng hay điều tiên-tri đó. Những người hiền từ biết vâng lời Tiên Thánh di cư đến các nơi đất lành nên được sống yên ổn.

Trong quyển sách viết tay, Troano, viết ra được lối 3.500 năm rồi, bản dịch của Le Plongeon, có tả trận Đại Hồng Thủy kỳ thứ Tư, nhận chìm cù lao Poseidonies: “Năm thứ sáu của Kan, ngày 11 Muluk, tháng Zac, trái đất bổng nhiên rung động dữ dội và liên tiếp như vậy trong ba ngày. Xứ Mu là xứ của đồi đất sét bị hại trước nhất , sau khi rung rinh dữ dội hai lần, nó chìm xuống giữa đêm tối trong biển lửa và chôn luôn 64 triệu sanh linh. Sự nầy xảy ra 8.060 năm, trước khi viết ra quyển sách nầy”.(L’Histoire de l’ Atlantide, page 33, W. Scott Elliot).



DÂN RMOAHAL (MOA-AN)

(Nhánh thứ Nhất, giống Ắt-Lăn)



Khi Đức Ngọc Đế Sanat Koumara đến Địa cầu, Ngài lo tạo lập giống dân chánh thứ Tư (Ắt-Lăn, Atlande). Bởi vậy, Đức Bàn Cổ thứ Tư chọn trong dân chúng Lê-muy-ri, những xác thân nhỏ đẹp, rắn chắc, ưu tú để làm cơ thể cho các Linh Hồn tiến hóa đến đầu thai. Ngài phải chọn kẻ lương hảo để sanh ra giống dân tốt. Chính Đức Bàn Cổ và các vị Đệ Tử của Ngài cũng đầu thai vào các gia đình Đạo Đức để sửa chữa giống nòi cho thanh nhã hơn.

Rốt lại, Đức Bàn Cổ đầu thai vào nhánh thứ Bảy dân Lê-muy-ri màu da trắng xanh, đã được các vị Điểm Đạo sửa đổi. Ban đầu chỉ những vị đã Điểm Đạo và các Đệ Tử mới được phép đầu thai, chiếm những xác thân tốt đẹp ấy, rồi lần lần các Linh Hồn tiến hóa khác mới đến sau để tạo thành một giống dân mới.

Đức Bàn Cổ bỏ hẳn màu da xanh của dân chúng và đổi từ màu đỏ sậm ra màu đỏ, sau cùng pha vào màu trắng xanh của dân Lémurie. Đó là nhánh thứ Nhất của giống dân chánh Ắt-Lăn, gọi là Rmoahal (Moa-an) sanh ra đã được lối bốn năm triệu năm nay.

Đức Bàn Cổ phải tốn biết bao công phu cực khổ, trải qua cả triệu năm mới tạo được một giống dân mới.

Dân Moa-an cao lối 3 thước, sau thấp bớt. Họ tiến bộ thua nhánh thứ Sáu và thứ Bảy của dân Lê-muy-ri. Mỹ thuật và khoa học còn thô sơ lắm. Đức Bàn Cổ và Tiên Thánh phải cai trị để dạy dỗ họ. Họ ở một xứ nóng và ẩm ướt, có nhiều giống thú đời Thái cổ ẩn nơi các đầm lầy lau sậy và ở trong bùn lầy.

Sau lại, dân chúng di cư xuống bờ biển miền Nam châu Ắt-Lăn, họ phải chiến đấu với nhánh thứ Sáu và thứ Bảy Lê-muy-ri.

Nhóm khác đi sang các doi đất miền Đông Bắc. Họ ở vùng Bắc không được miên viễn vì thỉnh thoảng những thời đợi băng hà đẩy họ xuống miền Nam. Lối 30 ngàn năm thì có một kỳ băng hà (période glacière).



DÂN LA-HOÁT-LI (TLAVATLIS)

(Nhánh thứ Nhì của giống Ắt-Lăn)



Nhánh thứ Nhì là dân La-hoát-li (Tlavatlis) sanh ra tại cù lao, dựa bờ biển miền Tây của Châu Ắt-lăn-tít (Atlantide) sau đi lần vô lục địa, rồi lần lên miền Bắc, ngang Groenland. Nhánh Tlavatli có màu da đỏ bầm, thân mình mạnh mẽ và bền dẽo, nhưng không to lớn bằng dân Moa-an, đã bị họ đuổi dồn về miền Nam. Họ ngụ tại miền núi nhiều nhất, ngay tại vùng đất mà ngày sau là cù lao Poseidonis. Nhiều tốp người di trú khắp nơi, tạo thành một thứ dân lai ở những cù lao mà bây giờ là Mỹ Châu và Rio de Janeiro. Tốp khác đi vào vùng Đông Scandinave. Tốp khác nữa đến tận Ấn Độ phối hợp với dân Lê-muy-ri tạo ra giống dân Dravidienne. Các vị Giáo chủ dạy dân Tlavatlis thờ một Đấng Thiêng Liêng cao nhất. Mặt trời tượng trưng cho Ngài, nên họ mới thờ mặt trời. Họ dùng những ngọn núi để làm bàn thờ; họ đục núi để làm Đền thờ và để làm Thiên văn đài nữa. Họ biết mỹ thuật và khoa học một cách thô sơ.



DÂN TÔN-TÉC (TOLTEQUES)

(Nhánh thứ Ba của giống Ắt-Lăn)



Dân Tôn-Téc (Toltèque) sanh ra gần bờ biển miền Bắc châu Atlantide, lối 30 độ Bắc vĩ-tuyến. Sau họ tràn lan khắp Châu và vị Hoàng Đế của họ làm bá chủ thế giới. Trong 7 nhánh của giống dân chánh thứ Tư, Ắt-Lăn, thì chỉ có nhánh thứ Ba này đáng được chú ý hơn hết.

Dân Tôn-Téc hình thù vậm vỡ, da đỏ hơn dân La-hoát-li, nên ba nhánh đầu của giống Ắt-Lăn đều gọi là dân da đỏ, đến 4 nhánh tiếp sau là dân da vàng. Họ cao lối 2 thước rưỡi. Về sau người Tôn-Téc cũng trở nên vóc nhỏ như người bây giờ. Da thịt họ cứng rắn hơn đá. Nếu lấy thanh sắt đập vào mình họ thì sắt sẽ cong lại. Mấy vết thương kéo da non lẹ làng.

Vị Hoàng Đế thứ nhì của dân này là Đức Bàn Cổ, xây dựng Kim Môn Thành (Cité aux Portes d’or), Châu Thành cửa bằng vàng, thứ nhất, trong một số Châu Thành mang tên này. Ngài chuẩn bị cho một nhóm Linh Hồn có Nhân Thể hoàn toàn (corps causal complet) từ mặt trăng đến đầu thai.

Dân Tôn-Téc chinh phục tất cả các giống dân khác. Trong thành-cửa-vàng chỉ có dòng quí tộc và dân cấp bực trung, do họ đào tạo mới được cư trú. Thời kỳ này có một nhóm Phụng Sự như: Sirius, Orion và Leo ,v.v. . .

Trong nhóm này còn có hai Linh Hồn, sau trở thành Chơn Sư có xác thân người Anh là Sir Thomas More và Philalèthe hay là Thomas Vaughan.

Triều đại thiêng liêng trị vì Ắt-Lăn-Tít được cả ngàn năm. Thường thường là cha truyền con nối, khi cần thì tuyển trong nhóm đã được Điểm Đạo.

Ấy là Thời đại Hoàng Kim của dân Tôn-Téc. Chánh phủ thật công bình và khéo léo.

Nhờ có Tiên Thánh dạy dỗ nên dân Tôn-Téc văn minh cực điểm; người ở thế kỷ 20 này chưa ai sánh kịp. Khoa học, văn chương, mỹ thuật tiến bộ lạ thường nhờ hiểu biết Huyền-bí-học, nay còn lưu dấu ở Mễ-Tây-Cơ và Pérou.

Thuở đó người ta biết dùng phi thoàn (aéronef), bên Đạo Đức gọi là Vimâna để tung mây lướt gió. Họ không dùng dầu xăng như bây giờ, mà dùng một sức mạnh cá nhơn gọi là Vril. Sau họ dùng một sức mạnh do phương pháp riêng để chạy máy. Sức mạnh này là chất dĩ thái và đựng trong một cái hộp nặng nề bằng kim loại để ở giữa phi thoàn. Tốc độ được 160 km giờ. Họ cũng tấn công nhau bằng phi thoàn, gây ra nhiều cuộc chiến tranh dữ dội. Khi ra trận, họ ngồi trên phi thoàn trút hơi độc xuống đầu kẻ nghịch làm cho cả ngàn quân lính chết ngạt, hoặc họ thảy bom làm cho nổ văng ra tứ phía, kẻ nghịch đứt đầu, cụt tay, lủng ruột, chết vô số.

Họ biết chế một thứ nước sơn để sơn cho vỏ cây trở nên dẽo như da thuộc. Họ không cần đào mỏ tìm vàng như bây giờ. Họ dùng khoa luyện kim (Alchimie) biến đổi các loại kim thành ra vàng. Họ dùng vàng làm cột nhà, hay làm đồ vật để chưng diện trong nhà. Họ dùng khoa học để mở mang nghề canh nông, chăn nuôi súc vật. Họ biết lợi dụng màu sắc để giúp cho cây cối và súc vật mau lớn hoặc trừ khử các chứng bệnh do vi trùng sanh ra. Thời kỳ vàng son này trải qua lối một trăm ngàn năm mới suy tàn.

Ban đầu họ là người tốt, nhưng về sau nhiều vị Thủ lãnh cùng nhiều vị Tư Tế và một nhóm dân chúng sanh tánh xấu; họ dùng thần thông để thủ lợi, để áp đảo và sát hại kẻ nghịch. Họ thi hành theo các mục đích ích kỷ và hung bạo. Họ chìm đắm trong pháp môn phù thủy và dứt liên lạc với hàng Tiên Thánh. Tánh ưa nhục dục và sự tàn bạo dã man càng tăng trưởng. Các nhà phù thủy nổi lên xưng Đế và đánh đuổi Bạch Hoàng Đế ra khỏi Kim-Môn-Thành rồi cầm quyền cai trị. Bạch Hoàng Đế chạy lên miền Bắc và trú ngụ nơi một vị vua Chư hầu ở phía Nam vùng núi non. Nhóm người phản đối nổi lên và tranh đấu không dứt.

Trải qua gần 850.000 năm, phe tả đạo càng ngày càng đông, Kim-Môn Thành trở nên sào huyệt của bọn người hành vi bất chánh.

Họ dùng phép thần thông để làm những chuyện trái nghịch Cơ Trời nên bị một trận Đại Hồng Thủy làm tiêu tan cả một nền văn minh của họ.

Hoàng Đế miền Bắc cùng các Tu sĩ Điểm Đạo trong lục địa đã biết trước từ lâu về cuộc Đại Hồng Thủy này nên đã khuyến cáo dân chúng và chuẩn bị di cư. Đến lúc gần kề, các Ngài bí mật lên tàu, dắt dân lương thiện tránh nạn lúc ban đêm.



* * *

NHỮNG TRẬN ĐẠI HỒNG THỦY



Cách nay lối 800.000 năm đã xảy ra trận Đại-Hồng-Thủy thứ nhứt làm cho châu Ắt-Lăn-Tít chìm xuống, chỉ còn 2 đảo lớn là Routa ở phía Bắc và đảo Daitya ở phía Nam, dính với nhau bởi một eo đất. Kỳ Đại-Hồng-Thủy này làm cho các nhà phù thủy đều chết hết, nhưng chừng đầu thai lại họ cũng còn dùng tà thuật hãm hại lương dân, nghịch với lòng Trời. Họ luyện phép thần thông, biết biến hóa, hô phong hoán vũ. Họ biết cách làm cho thú nói được tiếng người để giữ nhà và báo tin. Họ niệm thần chú, tức thì kẻ nghịch hóa ra thú vật.

Sau khi châu Ắt-Lăn bị chìm lần đầu, dân chúng lương thiện còn sống, hưởng được cảnh phồn thịnh, văn minh cực điểm suốt cả 100.000 năm.

Thời kỳ này, Corona, (sau đầu thai lại lấy tên là Jules César), từ Kim-Môn-Thành đi chinh phục và thắng được dân La-hoát-li. Ngài đối xử với họ rất tử tế và cho họ hiệp tác cùng gia nhập vào dân Tôn-Téc. Có nhiều nhóm Linh Hồn đến đầu thai từng loạt nên sanh ra nhiều hạng người.

Nhóm thứ nhứt đến lối sáu trăm ngàn năm trước Tây Lịch và đầu thai trong dân La-hoát-li. Sourya là lãnh tụ, vợ Ngài là Mercure, con trai cả là Mars và con gái là Héraklès. Sau Mars trở thành lãnh tụ và kinh nghiệm việc cai trị thiên hạ lần đầu tiên. Cũng trong thời gian này Quần Tiên Hội chăm lo sự đầu thai cho nhóm 105 Linh hồn từ bầu Kim Tinh đến. Họ thuộc về cung thứ nhứt và thứ nhì. Một nhóm nhỏ khác được dự bị để thành lập giống dân chánh thứ Năm.

Lúc đó nhóm Linh hồn gọi là Clan cũng được đầu thai trong Kim Môn Thành khi Mars làm vua, rồi đầu thai ở Pérou, khi Ngài làm Hoàng Đế tại lục địa gần Bạch-đảo của Đức Bàn Cổ. Ngày nay Hội Thông-Thiên-Học là một trong các địa điểm hội họp của nhóm Clan.

Vào lối 220,000 năm trước Tây Lịch, Thần Mars làm Hoàng Đế trong Kim-Môn Thành, dưới danh hiệu Lãnh tụ thiêng liêng, thì Mercure là vị Đại Tư Tế.

Một nhóm dân Tôn Téc quan trọng di cư đến Ai Cập và đô hộ dân chúng ở đây. Một trụ sở của các vị Điểm Đạo cũng được dời đến đây để tiếp tục công tác gần 200.000 năm. Các Ngài thành lập Triều Đại thiêng liêng thứ nhứt tại Ai-Cập.

Người ta xây dựng 2 ngọn Kim-Tự-Tháp Gizeh để dùng làm nơi Điểm Đạo thường xuyên. Ngoài ra cũng là nơi kho tàng và là Thánh Điện cất giữ một đạo bùa linh thiêng nhứt trong cuộc Đại Hồng-Thủy sắp đến mà các vị Điểm Đạo đều biết.

Nhiều ngàn năm sau, vua Kê-Ốp mới khắc tên ông vào một ngôi Kim-Tự-Tháp này.

Trận Đại Hồng Thủy thứ nhì xảy ra lối 200.000 năm nay để trừ đám phù thủy hung ác. Xứ Ai-cập chìm mất một thời gian khá lâu. Khi đất nổi lên lại, các dân cư từ trên các núi Abyssinie xuống đây ở, hiệp với các dân cư khác đến, tạo thành dân Akkadien (nhánh thứ Sáu). Đó là Triều Đại Thiêng Liêng thứ Nhì, thành lập tại Ai-Cập, cũng do các vị Tiên, Thánh cai trị.

Lúc này Đại lục Ắt-Lăn-Tít chỉ còn lại hai đảo lớn là Routa và Daitya riêng biệt nhau. Dân chúng được thịnh vượng, tạo một nền văn minh hùng cường, nhưng đại xa xỉ trong 100.000 năm. Kinh đô cũng còn tại Kim-Môn thành. Dân Tôn-Téc có quyền hành trên đảo Routa.

Bấy giờ Corona, Bạch Hoàng Đế đầu thai lại và cai trị dân. Mars là Nguyên soái có vợ là Héraklès. Một cuộc khởi loạn xảy ra, kẻ cầm đầu là Oduarpa, có luyện phép tà thuật, liên hiệp với đoàn Pan, nhóm nửa người, nửa thú.

Oduarpa chế ra một thứ áo giáp bằng kim loại bao quanh thân mình nên gươm giáo không đâm thủng được.

Oduarpa là Hắc-thần gian xảo và xấu xa, giao thiệp với âm binh. Khi một cuộc lễ tửu-thần man rợ và mê hồn ngây ngất được tổ chức thì từ dưới lòng đất hiện lên một đoàn người kỳ dị, hỗn độn, có hai chơn, lông lá xồm xoàm, tay dài, bàn chân chẻ hai, đầu thú và có bờm dài, không giống người, làm cho ai nấy đều khủng khiếp. Chúng rót cho những người dự lễ uống thứ nước và loại nhựa thơm của thảo mộc, làm cho họ phải ngã lăn, ngộ độc và mất cảm giác.

Lẫn lộn với đám nầy, xuất hiện những người thú hóa hình, hoang dã và vô ý thức, những loại thú hung dữ và xảo trá như người, ham mê dâm đảng, gầm thét đi kiếm mồi, đến khi cuộc lễ chấm dứt thì họ trở lại hình người.

Nhờ các cuộc lễ này, Oduarpa áp chế, thống trị toàn thể dân chúng và có quyền lực mạnh mẽ đối với loài nửa người, nửa thú. Chung quanh va có một đội hộ vệ gồm các loài thú hóa hình này. Khi xáp trận thì va xua chúng ra cắn xé kẻ nghịch, gây khủng khiếp cho các đạo binh rồi ăn thịt các xác chết.

Trận huyết chiến cuối cùng trong Thành Cửa Vàng, Bạch Hoàng Đế thua chạy. Tướng Mars bị Oduarpa giết, còn Héraclès bị bắt và bị cho thú dữ phân thây. Oduarpa xưng Hoàng-đế ở Kim-Môn thành. Nhưng Đức Bàn Cổ Vaivasvata đem đại binh đến đánh thắng và tiêu diệt đội binh thú nhơn tạo, phá tan đạo binh của Oduarpa và giết được y. Hoàng Đế Corona trở lại trị vì Kim Môn Thành và chấn chỉnh nền chánh trị.

Nhưng khi Oduarpa đầu thai lại thì sự tàn ác của y cũng tái diễn. Y tập luyện phép thần thông, không kể luật Trời, làm khổ dân chúng, gần 50.000 năm mà không biết ăn năn hối cải. Đức Ngọc Đế phải quyết định chấm dứt nạn tai cho dân chúng. Ngài ra lệnh cho các Đệ-tử và các vương hầu bỏ châu Atlantide, dắt tất cả dân chúng hiền lành, chơn chánh đi qua miền Bắc và miền Đông. Hai ngày sau, lúc nửa đêm, nước triều dâng lên cuồn cuộn, ngập cà thành thị, đồng bái, mưa to gió lớn, cây cối ngã xiêu, trốc gốc. Sóng bủa cao như núi, đất rung rinh rồi nứt ra từng mảnh, nhà cửa sụp đổ, lửa cháy đỏ trời, núi non bễ nát văng ra khắp nơi. Tiếng người khóc than, tiếng thú kêu la thảm thiết pha lẫn với tiếng sấm nổ vang trời.

Lúc đó bọn phù thủy bị phép mầu của Tiên Thánh nên không cự đương nổi, đành bó tay chịu chết không sót một người. Những kẻ xu quyền phụ thế, theo đảng bất chánh đều chôn thây trong nước lửa.

Trận Đại Hồng Thủy kỳ thứ ba này xảy ra năm 75.025 trước Tây lịch, tẩy uế Địa cầu, khiến cho người ham luyện phép tắc mà không lo sửa mình, không trau giồi hạnh kiểm phải gặp một bài học đắng cay. Nó nhận chìm hai đảo Routa và Daitya xuống biển, chỉ còn di tích là cù lao Poseidonis. Trận lụt này chỉ tạm thời ở Ai-Cập. Sau đó Triều Đại Thiêng Liêng thứ Ba bắt đầu cai trị. Dãy Hi-mã-lạp-sơn cao thêm. Miền Nam Ấn Độ sụp xuống, nhưng các Kim-tự-tháp vẫn còn nguyên vẹn. Đến Triều đại này, các vua đầu tiên cho xây cất Thánh Điện Karnak và nhiều lâu đài khác, hãy còn di tích ở Ai-Cập.

Những năm 9.564 trước Tây lịch, cù lao Poseidonis lại bị trận Đại-Hồng-Thủy thứ Tư nhận chìm thành ra Đại-Tây-Dương bây giờ.

Tuy thủy triều dâng lên ngắn ngủi, nhưng Triều-Đại Thiêng-Liêng ở Ai-Cập cũng chấm dứt, vì trụ sở của các vị Điểm Đạo được dời qua xứ khác.






TẬP HAI



Theo như quyển trước, chúng tôi đã lược thuật thì Linh-Hồn Nhơn loại đến Địa cầu đã được 4 kỳ. Hiện giờ mọi người đang ở giữa Cuộc-Tuần-Hoàn thứ Tư.

Những Linh-hồn chuyên cần đã đầu thai trong các giống dân chánh: thứ Nhất, thứ Nhì, thứ Ba (Lê-muy-ri), thứ Tư (Ắt-Lăn) và nay đã đến nhánh thứ Năm Aryen (A-ri-en).

Mỗi Linh-hồn phải đầu thai ít nhất là hai kiếp trong mỗi nhánh. Nếu học xong rồi sẽ được đầu thai vào Nhánh dân kế cao hơn. Nhưng nay ta còn thấy các dân tộc bán khai lạc hậu, là vì họ bê trễ, học chưa đầy đủ những điều phải học. Quần-Tiên-Hội cố gắng thúc đẩy cho họ mau mở mang hầu theo kịp trào lưu tiến hóa của Nhơn-loại Tiền-phong, nên thỉnh thoảng trong các dân lạc hậu lại có những người xuất chúng phi thường để dìu dắt họ.

Kỳ trước, chúng tôi đã nói đến dân Tôn-Téc, nay xin kể tiếp.



TÀN TÍCH CỦA DÂN TÔN TÉC

Ở Pérou (Bê-ru), Nam Mỹ Châu.



Lối 12.000 năm trước Chúa giáng sinh, dân chúng ở Pérou cũng văn minh như Đế Quốc Tôn-Téc trong thời phồn thịnh nhất.(L’homme, d’où il vient, où il va, trang 155- 216). Từ vua đến các quan, dân, đều biết lo bổn phận, thân mật với nhau như ruột thịt. Nếu ai xao lảng phận sự thì bị vị quan có trách nhiệm cảnh cáo. Nếu nhiều lần mà không chịu sửa đổi sẽ bị trục xuất, chớ không có khám đường để nhốt tội nhân.

Tôn giáo của họ có mục tiêu căn bản là vui tươi, vì buồn rầu và đau khổ, bị xem như là bằng chứng của sự hung dữ và vong ân bội nghĩa.

Trong xứ không có ai nghèo khó, thiếu thốn.

Thủ lãnh, chính là Đức Bàn-Cổ hoặc một vị Phụ Tá Chơn-Tiên cai trị và dạy dỗ, nên dân chúng đều hiểu biết bổn phận, vui vẻ làm tròn nhiệm vụ của mình.

Đất ruộng được săn sóc kỹ lưỡng và chia đồng đều cho dân chúng. Làng xã nào cũng có đất ruộng tương xứng với số dân. Huê lợi thâu thập được thì dân giữ phân nửa để nuôi gia đình, còn phân nửa thì góp vào của công. Chánh phủ sẵn sàng mua hết lúa mì còn dư của dân sự và chứa vào các kho rộng lớn, ở khắp nơi để dành nuôi dân chúng khi thất mùa và tai biến.

Các Nhà sư xây cất và giữ gìn những đền thờ tốt đẹp phi thường, ở khắp trong xứ, ngày nay không có đền thờ nào bằng. Các Ngài còn lo nuôi dưỡng kẻ đau ốm, mà người ta gọi là khách quí của mặt trời.

Trẻ nhỏ đều được đi học, đọc, viết, tính toán và các điều thường thức cần thiết; đến 10, 11 tuổi chúng tập nấu bếp, phân biệt trái cây nào độc, trái nào ăn được; chúng tập bơi xuồng, bơi lội, trèo, leo, nhảy rất giỏi, biết cứu thương và dùng cây làm thuốc.

Đến 12 tuổi, người ta cho chúng theo một nghề thích hợp và được học ở trường kỹ thuật chuyên môn trong chín, mười năm nữa. Chúng nó cũng được tuyển chọn để học các lớp Chánh trị, nhưng vì kỷ luật nghiêm khắc nên số sinh viên không được nhiều.

Canh nông, khoa học, là ngành hoạt động chánh trong nước. Họ có nhiều xưởng và nhà máy.

Kiến trúc của họ thật là vĩ đại nhưng đơn giản, cần và thực dụng chớ không phải để phô trương. Cột nhà bằng nguyên tảng đá. Họ mài đá cho bằng thẳng rồi để chồng lên nhau thật khít, khó trông thấy kẽ hở, vậy mà theo kẽ đá có đổ thêm một thứ hồ như xi măng, chừng khô cứng hơn đá. Phần nhiều nhà xây cất bằng đất sét có trộn một thứ thuốc, chừng khô rồi cứng như đá. Vách tường rất dày và cao. Cửa làm bằng nguyên tảng đá, chạm trổ phức tạp, mà đóng mở được dễ dàng. Vách phía trong nhà đều bọc bằng kim khí, cũng như dán giấy vào vách phòng. Nhà của Vua và các đền thờ thì vách bọc bằng vàng lá dày 5,6 ly. Đường lộ đều lót đá bằng thẳng, hai bên trồng cây và kiểng.

Quân đội của họ được rảnh rang, chỉ lo bảo vệ các công tác công cộng, hoặc tăng cường trong các kiến trúc mới. Họ rất tử tế, dễ dãi với các bộ lạc khác để tránh sự xung đột.

Họ thích dùng đồng trộn với chất xi măng tốt, làm cho nó thật cứng và chế tạo đồ khí cụ bén như thép ngày nay. Họ làm đồ gốm bằng đất sét trộn với chất hóa học nên màu đỏ và chói; có thứ lại trong suốt như pha lê, màu sắc đẹp đẽ mà không giòn. Họ cũng cẩn đồ dùng với vàng và bạc, tinh xảo vô cùng. Nghề vẽ cũng khéo léo, khi vẽ xong thì thoa lên một lớp dầu rất mau khô và không phai màu, lại chịu đựng với mưa nắng được lâu ngày.

Họ không ăn thịt thú vật, chỉ dùng khoai tây, khoai mài, đậu, bắp, gạo và sữa.

Người Pérou thương thú vật nhà, nhất là khỉ con và mèo, có nhiều loại. Họ gây giống được thứ mèo có lông xanh tươi rất sáng chói. Vài bà sang trọng, giàu có, nuôi chim trong một cái lồng bằng vàng rất to, rồi cả ngày mãi vui dạy chúng nó mở tình thương và mở trí.

Dân chúng lấy bổn phận làm đầu và không vụ lợi. Đây là một nhánh dân đã trưởng thành, tiến cao hơn trình độ nhơn loại hiện tại. Đến một ngày kia, chúng ta cũng sẽ đến bực cao hơn dân Ắt-lăn nầy nữa.



DÂN TU-RA-NHEN (TOURANIEN)

(Nhánh thứ Tư, giống At-Lăn)



Dân Touranien (Tu-ra-nhen) sanh ra tại miền Đông Châu Ắt-lăn-tít, và miền Nam xứ Tlavatlis (La-hoát-li). Họ sống chung với dân Tôn-téc. Họ không có uy thế tại bản thổ, mặc dầu họ có nhiều bộ lạc rất mạnh mẽ. Họ luôn luôn ưa thích chiếm thuộc địa nên di cư qua miền Đông.

Vào khoảng 800.000 đến 200.000 năm trước Tây Lịch, họ chiếm vùng đất mà bây giờ là Đô thị Maroc và Algérie. Nhiều người khác di cư qua miền Đông, thành ra dân Trung Hoa, và một nhóm nhỏ là dân Atèques xâm chiếm đại quốc Tôn-Téc.

Dân Tu-ra-nhen là dân hung bạo và không kỷ luật. Vì họ là nhóm di cư thiểu số nên luôn luôn không thắng được dân Tôn-téc.

Dân Touranien là nhánh dân đầu tiên của 4 nhánh dân phụ da vàng. Ban đầu họ dùng ngôn ngữ của người Tlavatlis, nhưng về sau họ biến cải ra một thứ tiếng riêng biệt.

Có một lúc, họ cổ võ để thành lập Chánh phủ nhân dân lập hiến, nhưng quá bạo nên kết quả khốc hại, khiến cho toàn dân phải chìm trong hỗn loạn.

Dân Tu-ra-nhen có nhiều tánh đam mê dữ dội và thấp hèn. Họ là một dân tộc khó chịu.



TÀN TÍCH CỦA DÂN TOURANIEN

(Xứ Chaldée. (Can-đê)

Năm 19.000 trước T.L.



Một nhóm dân Tu-ra-nhen đến ở xứ Chaldée (Can-đê) lối 30.000 năm trước T.L., luôn luôn bị giặc giả, sống về nghề nông tối sơ, dốt kiến trúc và văn hóa.

Đức Bàn Cổ đưa đến đây một vị Thủ-Lãnh Á-Đông, một người Théodorus, tạo ra dòng Vương hầu xứ cổ Chaldée. Dung mạo thật khác xa thần dân. Dáng người khỏe mạnh, da màu đồng, mắt hơi sâu và sáng ngời.

Sự văn minh, tiến bộ của dân Can-đê lên đến ngang hàng với dân Tôn-téc ở Pérou, lúc 14.000 năm trước T.L., nhưng có nhiều điểm khác nhau.

Cách cai trị cũng khác xa. Căn bản trong đời sống xây dựng theo Tôn-giáo, đến mức độ cao hơn Bà-La-Môn giáo ở Ấn Độ.

Giáo lý Chaldée thì nghiêm khắc, thần bí và có một nghi lễ phức tạp trong việc thờ phượng các vị Đại-Thiên-Thần Tinh-Tú; (Thông-Thiên-Học gọi là các vị Hành-Tinh Thượng-Đế, Logos planétaires) gồm một giáo lý rộng rải và tinh luyện tỉ-mỉ về Chiêm-Tinh thuật. Họ biết được ảnh hưởng của các vì sao đối với mỗi người, nhưng các vị Tư-Tế Can-đê không theo thuyết định-mạng. Các Ngài nói là: ảnh hưởng đó không thể áp chế Ý-chí của con người được. Người hùng tráng không sợ ảnh hưởng xấu làm hại, còn người thường thì biết lợi dụng ảnh hưởng tốt để tiến bộ.

Họ xây cất những đền thờ theo một tỷ-lệ thích hợp để trình bày tương xứng kích thước mỗi hành-tinh và khoảng cách xa từ chúng nó đến mặt trời.

Người ta dạy người mẹ có thai, sống theo nhà tu, trước và sau khi sanh con.

Sau một thời gian huy hoàng, thạnh vượng rất lâu, Đế quốc Can-đê lần lần suy tàn cho đến khi bị Bộ lạc du mục của người Thát-Đát (Tartares) dã man, cuồng tín, xâm lấn và hủy diệt tất cả tàn tích đền thờ. Nhóm ăn cướp nầy lại bị dân Akkadien từ Bắc tràn xuống đánh giết, rồi lai giống với dân chúng sống sót, cùng các dân khác để thành lập ra Đế Quốc Babylone.



DÂN XÊ-MÍT (SÉMITE)

(Nhánh thứ Năm.- Giống Ắt-Lăn)



Giống dân Xê-mít nguyên thủy tức là nhánh thứ Năm của giống dân chánh thứ Tư (Ắt-Lăn). Họ là Tổ-Tiên của dân Do-Thái và tạo ra giống dân chánh thứ Năm Aryen.- (A-ri-en) bây giờ. Họ ở miền sơn cước và các bãi biển lân cận, nên rất bất lợi. Họ mở mang thạnh vượng và vì giành độc lập nên chống với các vua miền Nam, cho đến khi phải bành trướng ra ngoài để chiếm thuộc địa.

Họ nóng nảy, luôn luôn bất mãn và khai hấn với những người lân cận, nhứt là với dân Ăc-ca-den (Akkadien) là nhánh thứ Sáu mà dân nầy càng ngày càng hùng cường thêm.

Dân Xê-Mít (Sémite) chiếm được một vùng đất dài và rộng, bao gồm luôn Kim-Môn-Thành (Cité aux Portes d’or). Nhưng sau lại họ phải phục tùng dân Akkadiens và cuối cùng bị dân nầy tận diệt, lối 100.000 năm nay.

Dân Xê-mít (Sémite) đi sang phía Tây là vùng đất của Huê-kỳ ngày nay, và tràn lan qua miền Đông là Âu-Châu, Phi-Châu và Á-Châu nữa. Đức Manou (Bàn Cổ) dự định dùng nhánh dân nầy để đào tạo ra giống dân chánh thứ Năm và cho họ mở Hạ-trí. Ấy là dân Aryen. Da họ trắng hơn người Ắt-Lăn; họ dùng tiếng Tôn-téc làm căn bản để tạo ra một thứ tiếng riêng biệt.



DÂN AKKADIEN (ĂC-CA-DEN)

(Nhánh thứ Sáu, giống Ắt-Lăn)



Nhánh thứ Sáu là dân Ăc-ca-den (Akkadien). Họ sanh ra sau cuộc Đại Hồng Thủy, cách nay 800.000 năm, ở miền Đông châu Ăt-Lăn-Tít. Dân Ăc-ca-den phải tranh đấu với dân Xê-mít, đến 100.000 năm sau mới chiến thắng và tiêu diệt dân Xê-mít. Họ lập triều đình tại Kinh-đô cũ của Xê-mít. Họ trị nước rất khôn khéo cả mấy trăm năm như vậy. Dân Akkadien rất giỏi nghề buôn bán, đi biển và chiếm thuộc địa. Họ cũng giỏi về khoa chiêm-tinh và thiên văn.

Họ đem ánh sáng văn minh truyền sang miền Đông, đi ngang qua xứ Perse (Ba-Tư cổ) và Á Rạp. Họ chiếm xứ Ai-cập và sanh ra dân Etrusques, Phénicien, Carthaginois và Basques.

Lúc dân Ắc-ca-den mới lập thành, có một nhóm Đệ-tử Điểm-Đạo qui tụ ở vùng Scandinave của Âu-Châu. Các nhà Sư thuộc về nhánh dân trước. Họ cao lớn và da vàng hơn người bổn xứ, đầu cũng dài hơn. Người Akkadien là nhánh dân phụ da vàng thứ Ba, nhưng da mặt họ sáng hơn người Xê-mít. Họ cũng dùng tiếng Tôn-téc tạo ra một ngôn ngữ riêng biệt.



DÂN MÔNG CỔ (MONGOL)

(Nhánh thứ Bảy, giống Ắt-Lăn)



Nhánh thứ Bảy là dân Mông-Cổ, sanh ra trên đồng Thát-Đát (Tartarie), ở miền Đông Tây-Bá-Lợi-Á (Sibérie). Họ là con cháu chánh tông của dân Tu-ra-nhen, lần lần họ tràn lan khắp Á-Châu. Nhánh nầy sanh sản mau lẹ và hầu hết con người trên thế giới bây giờ đều có lai dòng máu của họ.

Dân Mông-Cổ không ở yên một chỗ và tấn hóa rất mau. Họ mộ Đạo và có Tâm Linh hơn người Tu-ra-nhen. Dân Hung-gia-lợi là cháu chắt của họ và tánh tình được cải thiện nhờ dòng máu A-ri-en. Dân Mã-Lai là một chi nhánh khác, lai giống với dân Lê-muy-ri suy tàn. Dân Mông-Cổ là nhánh cuối cùng của giống Ắt-Lăn, hiện còn đang phát triển mạnh mẽ. Họ chưa tiến bộ đến tuyệt đỉnh, vì hậu duệ của họ là dân Nhựt-Bổn, sẽ tạo một thành tích mới để bổ khuyết vào lịch sử nhân loại.



GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ NĂM

ARYEN (A-RI-EN)



Dân Aryen (A-ri-en) là Tổ-Tiên của dân tộc da trắng. Dân nầy mở mang trí thức, cũng có 7 giống dân phụ là:

1/- Ấn-Độ (Hindoue, Indo Aryen)

2/- Á-Rạp (Aryo Sémitique)

3/- Iranien (I-ra-nhen, Cổ Ba-Tư)

4/- Celte (Xen-tờ)

5/- Teuton (Tơ-Tông)

6/- Nhánh thứ Sáu đã xuất hiện ở nhiều nơi.

7/- Nhánh thứ Bảy chưa ra đời.



Đức Bàn-Cổ Vaivasvata bắt đầu chọn một nhóm Linh hồn tiến hóa cao, cho đầu thai để sau tạo thành giống dân chánh thứ Năm Aryen (A-ri-en) cách đây đã được một triệu năm, rồi 400.000 năm sau tuyển lại kỳ nhì những Linh-hồn đủ điều kiện, nhưng quyết định dứt khoát lối 100.000 năm nay là chọn dân trong nhánh thứ Năm, dân Xê-mít, đang ở biệt lập vùng núi Bắc Routa, mới xứng đáng. Đức Bàn-Cổ cần phải để cho họ ở riêng biệt. Đức Phật Gautama lúc nầy còn ở ngôi Bồ-Tát, lo giáo hóa họ, tạo cho họ một Tôn Giáo mới. Người nào được công nhận vào đoàn thì không được kết hôn với người Bộ Lạc khác. Vào năm 79.797 trước Tây Lịch (T.L), sự xâm lược của Hắc Thần gần kề, Đức Bàn-Cổ dùng 30 chiếc tàu buồm lớn để di-cư đám dân của Ngài sang xứ A-rạp, đi ngang biển Sahara, bây giờ là Sa-mạc. Có 3 kỳ di cư, cả thảy được 9.000 người, cùng một số thú vật. Trong 9.000 người di cư ấy có: 5 phần sáu là dân Xê-mít, một phần 12 là người Ắc-ca-den (akkadien) và một phần 12 là dân Tôn-téc. Đức Bàn Cổ lựa toàn là người tốt.

Lúc đó người Tôn-téc ở Ai-Cập tiến hóa vô cùng. Khi đoàn người di cư đi ngang qua xứ họ, bị họ quyến rủ ở lại. Có một số người ham mê lời đường mật, cải lịnh Đức Bàn-Cổ và ở lại đó nên sau trở thành tôi mọi của người Tôn-téc. Những người di cư theo Đức Bàn-Cổ lên cao nguyên Á-rạp, đi ngang qua rẻo đất mà ngày nay là kinh Suez. Họ đến trũng núi phì nhiêu, ở rải rác để lập nghiệp an cư. Họ tận tình tôn thờ Đức Bàn-Cổ nên dân Ai-cập không bằng lòng, nổi giận rượt theo để tiêu diệt dân di cư, nhưng chúng bị Đức Bàn-Cổ Vaivasvata giải tán. Dân di cư sống sung sướng, sanh sản mau lẹ, trong 2 ngàn năm, dân số lên đến mấy triệu người. Họ gieo trồng các hột giống của họ đem theo. Họ ở đây xa hẳn các dân chúng khác, nhờ một dải cát sa mạc bao quanh, chỉ còn một con đường đi ra ngoài được, nay là thành La Mecque. Những người sanh tánh xấu xa đều bị Đức Bàn-Cổ cho đi ra miền Nam Palestine hoặc miền Nam Ai-cập.

Vài năm trước khi có Đại-Hồng-Thủy (75.000) trước T.L.) Đức Bàn Cổ vâng lịnh Thiên-Đình chọn 700 người con cháu của Ngài có hạnh kiểm tốt, lập thành một phái không theo cổ tục khắc khe, đưa họ đi lên miền Bắc ngang qua Turquie d’Asie, xứ cổ Ba-Tư là Perse và nhiều xứ khác; đến Turkestan, họ xin phép chánh phủ Liên-hiệp Tu-ra-nhen để đi qua Tây Tạng (Thibet). Sau nhiều năm lữ hành họ đến mé biển Gobi rồi đi lần lên các núi ở phía Bắc. Biển nầy không sâu lắm, nhưng rộng lớn chạy dài đến Bắc-cực.

Đức Bàn-Cổ để một số dân ở trên doi đất cao Đông Bắc, còn phần đông Ngài để ở tại trũng đất phì nhiêu. Bạch-đảo (ile blanche) ở hướng Đông-Nam, nhưng họ chưa biết, đến sau khi ở đây đầy dẫy Đền thờ vĩ đại, họ mới thấy. Đất cát ở đây vững chắc, nên khi có cuộc động đất kinh khủng nhất thế giới, thành thị và nhà cửa ở đây không bị hư hao. Dân chúng Gobi chỉ sợ hãi và dường như bị tê liệt, vì lúc ấy mặt trời bị nhiều lớp mây đen dày bịt phủ kín cả năm. Những trận mưa ghê rợn không dứt. Bụi mù mịt và hơi nước bay lên khuất cả vùng. Cây cỏ không mọc được nên dân sự bị đói mà chết bớt.

Khi mới đến đây, dân số 700 người, sau sanh sản thêm đến cả ngàn người, nay vì không chịu nổi đói rét phải chết mòn, chỉ còn lại 300 người bền dẽo, lực lưỡng. Năm năm sau, họ tạo lập sự nghiệp lại. Nhờ khí hậu ấm thêm, đất tốt nổi lên nên trồng tỉa được.

Lúc đó Đức Bàn-Cổ đã già. Ngài được lịnh Thiên-Đình phải dắt dân sự của Ngài qua Bạch-Đảo. Nơi đây Ngài phải thực hành một chương trình vĩ đại trong cả chục ngàn năm. Dân chúng của Ngài sẽ sanh sống trên mé biển Gobi để phát triển và hùng cường thêm. Giống dân mới sẽ thành lập tại Bạch-Đảo và trên bờ biển đối diện phía Nam, một thành phố hùng vĩ được dựng lên. Dân chúng càng ngày càng đông và mạnh mẽ cả chục ngàn năm.

Có một dãy núi chạy dài theo mé biển Gobi và cách thành phố lối 30 cây số, nhiều ngọn đồi thấp, nhô lên giữa dãy núi và mé biển, tạo ra 4 trũng núi riêng biệt nhau, chạy dài xuống tới mé biển, nên Đức Bàn Cổ dắt những gia quyến được chọn lựa đến ở, mỗi nhóm một trũng núi, để sanh sản ra 4 Nhánh dân khác nhau. Bốn Nhánh này về sau, được dắt đi đến nhiều nơi trên thế giới để tạo ra các dân tộc mới đặc biệt.

Lối 70.000 năm trước T.L. Đức Bàn Cổ ra lệnh cho dân sự của Ngài lập làng xóm trên đất liền. Dân sự sanh sản trong nhiều ngàn năm như vậy. Đức Bàn Cổ lúc bấy giờ được toàn dân tôn lên Hoàng Đế ngự tại Đế-Đô Bạch-Ngọc-Kinh (Shamballa).

Vài năm sau, Đức Bàn Cổ ra lệnh cho Jupiter, Corona (sau đầu thai là Jules César), Mars, và Vajra (tiền kiếp của bà H.P.Blavatsky) chọn những trẻ ưu tú đưa về Bạch Ngọc Kinh. Những trẻ này là Uranus, Neptune, Surya, Brihaspati, Saturne, Vulcain và Vénus, về sau đều đắc quả Chơn Tiên. Đến sau, không bao lâu những người Touranien đến xâm lấn, hết tốp này rồi tốp khác và tiêu diệt họ.

Những trẻ nhỏ được cứu khỏi chết và được nuôi dưỡng theo kỷ luật, sau lập được nền văn minh thật cao hơn quần chúng tầm thường. Phần đông là những nhà hiền triết và những người phụng sự nhơn loại. Họ lập đồn để giữ biên giới chắc chắn, phòng ngừa sự xâm lăng của dân Tu-ra-nhen. Nhưng khi dân sự khá đông đủ lập thành quốc gia thì họ lại bị dân Tu-ra-nhen tàn sát lần thứ nhì, chỉ trừ một số trẻ nhỏ và những tớ gái được cứu thoát. Họ được đem về nuôi dưỡng tại Bạch Ngọc Kinh. Như thế giống dân Chánh luôn luôn được bảo tồn.

Đức Bàn Cổ và các phụ tá cũng thường đầu thai lại để sửa đổi giống dân thêm tốt đẹp, như ý muốn. Có một điều lạ là dân Tu-ra-nhen không dám đá động đến Bạch Đảo mà họ rất tôn thờ.



ĐÔ THÀNH ĐẠI KIỀU

(Ville du Pont)



Sau sự tàn sát kỳ nhì của Touraniens, Đức Bàn Cổ mới cho Mars đầu thai trong một gia đình Tôn-Téc trong sạch nhất tại Poseidonis. Khi Mars được 25 tuổi Đức Bàn Cổ gọi về gả con gái, để cho hai thứ máu hòa nhau, hầu sanh ra giống dân kiểu mẫu.

Lúc đó lối 60.000 năm, trước Tây lịch, Giống dân Aryen mới chánh thức thành lập và không sợ bị tàn sát nữa.

Những con cháu Đức Bàn Cổ cư ngụ tại Bạch Đảo cho đến khi đủ số 100 người mới di cư vào đất liền và bắt đầu xây dựng Thủ Đô theo ý định của Đức Bàn Cổ.

Thành phố cất dọc theo bờ biển, hình rẻ quạt, chạy dài lên dốc đồi, dài đến 30 cây số. Đường sá rất rộng rãi, hướng về Bạch Đảo.

Trong các đồi núi có đủ thứ kim loại, có nhiều thứ đá đẹp, đủ màu và vân-ban-thạch màu đỏ hồng.

Nhóm người lo việc kiến thiết, sống trong tình huynh đệ, làm việc vui vẻ, vì biết là họ phụng sự cho Từ phụ của họ, vừa là một đấng Minh vương.

Họ dùng máy, đẩy những tảng đá thật to để xây dựng nhà cửa. Có những tảng dài đến 50 thước, Đức Bàn Cổ và các vị phụ tá phải dùng thần lực đem để nó đúng chỗ xây dựng. Các kiến trúc giống như ở Ai Cập, nhưng hình dáng nhẹ nhàng hơn. Điều đáng được chú ý ở Bạch Đảo là nóc nhà tròn như búp hoa sen, có chạm trổ, giống cánh hoa ốp lại khi chưa nở, trông rất khéo léo. Nhà cửa rộng lớn vững chắc, phải mất mấy trăm năm mới xây cất xong. Nhờ các đền đài đó mà Bạch Đảo trở thành một kỳ quan trong thế giới. Khắp Bạch Đảo đều có đền thờ tốt đẹp phi thường, làm toàn bằng cẩm thạch cẩn vàng và nổi tiếng là một Thánh-Đô, độc nhất ở trần gian. Chính giữa đảo có một đền thờ rộng lớn bao la, là nơi bốn vi Hồng Quân (Koumaras) hiện đến vào những dịp đặc biệt.

Bốn khu vực đường lộ chung quanh đều đồng quy về đền thờ chánh. Nếu đứng ở đầu đường, xa đền 16 cây số để nhìn, người ta sẽ thấy cảnh đẹp tuyệt vời và dễ cảm kích.

Bên trong cũng như bên ngoài các đền thờ có nhiều hình điêu khắc, phần lớn là những biểu tượng như hội Tam Điểm. Có một loạt hình tượng trưng hột nguyên tử hồng trần và hóa học. Những hột sanh lực thì được chạm nổi. Trải qua cả ngàn năm kiến trúc mà người ta vẫn còn tiếp tục xâydựng thêm mãi. Người ta dùng vàng, bạch ngọc, mã não để cẩn trên đá cẩm thạch trắng.

Thành phố trên mé biển nối liền với Bạch Đảo nhờ một cây cầu đá nguyên khối to lớn và đẹp lộng lẫy. Vì vậy người ta mới gọi là Đô-Thành Đại-Kiều. (Ville du Pont). Cầu gồm có một nhịp, êm ái, trang trí rất nhiều hình tượng khéo léo. Đá lót trong lòng cầu dài đến 50 thước và rộng lớn.

Vào năm 45.000 trước T.L Đô thành phồn thạnh cực điểm. Nó là Kinh Đô của một Đế quốc bao la, gồm cả Á Châu, từ Tây Tạng đến mé biển, và từ Mãn Châu đến Thái-Lan. Nó thiết lập uy quyền tối thượng trên tất cả các đảo từ Nhựt Bổn đến Úc Châu.

Các lâu đài khổng lồ này kết thúc với một sự thanh nhã vĩ đại và văn minh tột bực. Người ta nói các phế tích đại quy mô của nó, ngày nay còn làm kinh ngạc tất cả những ai thấy được tại Bạch-Ngọc-Kinh (Shamballa).

Cây cầu vẫn còn đứng vững, nhưng dưới cầu thì khô cạn chỉ có những lượn sóng cát của sa mạc vẫy vùng.

Đấy là Đô thị uy quyền dựng theo kiểu mẫu của Đức Bàn Cổ Vaivasvata và tạo tác bởi con cháu của Ngài. Trên đời nầy không có thành phố to lớn nào bì kịp. Nơi đây các đấng thiêng liêng vẫn cư trú, thường phóng điển lành và ban ân huệ mãi mãi cho khắp thế gian.



DÂN ẤN-ĐỘ (INDO ARYEN)

(Nhánh thứ Nhứt , giống Aryen)



Đến năm 60.000 trước T.L., một thiểu số dân di cư ở bờ biển Gobi đã thành một dân tộc đông đảo Aryen, họ đi xâm chiếm các nước lân cận. Nhánh đầu tiên đi qua Ấn-Độ nên được gọi là dân Ấn-Độ da trắng (Indo Aryen). Lần lượt các nhánh khác cũng di dân về hướng Tây, ít ra cũng có bốn nhánh , Giống dân chánh thứ Năm: Aryen, tiến triển phi thường, đến năm 45.000 trước Tây-lịch thì họ mở mang đến tuyệt đỉnh. Họ đi xâm chiếm Trung-Hoa và Nhật-Bổn, nhứt là Mông-Cổ và tiến lên miền Bắc và Đông. Tới khi gặp lạnh quá, họ mới dừng chơn. Họ cũng chiếm Đài Loan và Thái-Lan, có dân Tu-ra-nhen và La-hoát-li ở.

Dân Aryen còn chiếm cứ Sumatra, Java và các cù lao ở kế cận.

Thường thường dân Aryen tới đâu thì được thổ dân tiếp rước vui vẻ, vì họ xem những người da trắng nầy như thần thánh, nên yêu quí chớ không đánh đuổi như kẻ địch. Tàn tích thuộc địa nầy còn lưu dấu đến ngày nay là Bộ-lạc ở miền núi, gọi là Toala ở cù lao Célèbe. Dân Aryen còn lan tràn đến bán đảo Mã-Lai, Phi-Luật-Tân và Úc Châu nữa.

Đức Bàn-Cổ làm bá chủ các Vương Quốc, dầu Ngài có đầu thai lại hay không, các vị vua đều nhân danh Ngài để cai trị. Nền văn minh và đặc tính của giống dân nầy đáng cho ta tìm học. Một dân tộc trải qua mấy trăm ngàn năm văn hiến ở Ắt-lăn và cả ngàn năm tiến bộ dưới quyền điều khiển của Đức Bàn-Cổ ở Á-rap và Bắc Á-Châu thì chẳng phải là một giống dân đầu tiên.

Toàn dân đều biết đọc và biết viết. Công tác nào cũng được xem là vinh dự, vì họ phụng sự Đức Bàn-Cổ. Họ sống theo tình Huynh-đệ, bình đẳng và nhã nhặn. Họ tin cậy người cao thượng hơn họ, biết nhớ ơn người giúp đỡ họ và luôn luôn tránh sự gây gổ nhau. Nền văn minh Aryen khác hẳn văn minh Ắt-Lăn, vì nó không phức tạp, xa hoa. Dân Ắt-Lăn tìm phương tiện và danh dự riêng cho mình, lại nghi ngờ lẫn nhau. Dân Aryen rất trọng lời nói của mình, nếu không giữ lời hứa thì không xứng đáng làm dân Aryen.

Họ kết bạn và hợp tác với người tiến-hóa cao, dầu không đồng chủng, nhưng không giao thiệp với người xấu xa.

Vài người Aryen nghiên cứu tận tường khoa học huyền bí để giúp vào việc công ích. Họ mở được Thần nhãn và tập điều khiển thần lực, tạo những hình tư tưởng và muốn bỏ xác chừng nào cũng được.

Nhớ lại những hậu quả thảm khốc thời kỳ Ắt-Lăn-Tít, các vị Giáo chủ rất thận trọng trong việc lựa chọn Đệ-tử và một vị Phụ tá Đức Bàn-Cổ kiểm soát tất cả các hạng dân.

Thời kỳ đó không có báo chí, nhưng các vị có thần nhãn, biết được tất cả các tin tức ở khắp nơi cũng như ngày nay, ta dùng điện tín hay vô tuyến điện. Có khi Đức Bàn-Cổ không thể ban chỉ dụ cho một lãnh tụ ở xa xôi thì Ngài sai một Đệ-tử xuất vía đến vị lãnh tụ đó, hiện hình ra và giao thông điệp. Như thế Đức Bàn-Cổ thật là một Đế-vương có mặt ở khắp nơi trong đế quốc.

Người ta ghi chép trên mọi vật thể. Người ta dùng một mũi nhọn để khắc trên một bề mặt bằng thẳng có tráng một lớp sáp và chữ viết là những nét hủng được đổ đầy một chất lỏng, khi khô thì cứng lại.

Máy móc lúc đó đơn giản hơn hồi giống Ắt-lăn và một phần lớn công việc đều làm bằng tay. Đức Bàn-Cổ muốn tránh các xa hoa quá lố của thời Ắt-Lăn. Đến năm 40.000 trước T.L. Đế quốc bắt đầu suy sụp. Các đảo và các tỉnh xa xôi đòi quyền độc lập một cách dã man. Đức Bàn Cổ thỉnh thoảng cũng có đầu thai xuống thế, nhưng thường chỉ huy những công tác ở cõi trên. Tuy thế, trung tâm đế-quốc vẫn giữ nền văn minh huy hoàng được 25.000 năm nữa, trong lúc các nhánh dân phụ lan rộng ra khắp nơi.



DÂN Á-RẠP (ARYO SÉMITE)

(Nhánh thứ Hai , giống Aryen)



Đức Bàn-Cổ tiếp tục đào tạo bốn nhánh dân phụ của giống A-ri-en. Ngài chọn những người Phụng-sự đã tiến bộ muốn đi khai thác các nơi hoang vu để thành lập quốc gia. Phần đông những người nầy đã là Hội viên T.T.H. Công tác nầy có thể bị coi là bạc bẽo, nhưng nó rất cần thiết và hợp thời.

Đến kiếp thứ ba, Mars, Mercure, và vài vị tiến hóa cao đầu thai vào gia quyến nầy để minh thị cho giống dân mới. Khi có Linh Hồn tiến hóa cao đầu thai thì Nhánh dân đó trở nên hết sức tốt đẹp. Ấy là thời đại Hoàng Kim của dân-tộc đó. Lúc bấy giờ, các Linh hồn trẻ hơn cũng đầu thai để cộng tác, nhưng tự nhiên là họ chưa đủ khả năng.

Đến năm 40.000 trước T.L. Đức Bàn-Cổ nhứt định cho họ di cư khắp thế giới. Dưới quyền điều khiển của Mars, một đoàn người đi theo lối cũ trở lại xứ Á-Rạp, để tạo ra giống dân lai người Á-Rạp.

Về sau, chính Đức Bàn-Cổ cầm đầu đoàn di cư gồm có 150 ngàn tráng sĩ và 100.000 đàn bà với trẻ nhỏ. Hai năm trước khi đi, Đức Bàn Cổ có cho sứ giả đến xứ Á-Rạp xin cho dân di cư đến đó. Ban đầu vị Thủ Lãnh Á-Rạp không bằng lòng, nhưng sau cho phép họ đến ở nơi một thung lũng lớn, hoang vu, trên biên giới. Không bao lâu, toàn thung lũng được khai phá, dẫn thủy nhập điền và một ngọn rạch lớn lưu thông ở giữa. Không đầy một năm, đất được trồng tỉa và trúng mùa. Ba năm sau thành một Quốc gia thạnh vượng và tự túc.

Nhưng Lãnh tụ Á-Rạp lại ganh tị và thuyết phục Đức Bàn Cổ giúp đánh một nước láng giềng. Đức Bàn Cổ không chịu giúp, nên Thủ-lãnh Á-Rạp ký hoà ước với kẻ nghịch và tìm thế đuổi nhóm di cư ra khỏi lãnh thổ. Nhưng Đức Bàn-Cổ chống cự lại, đánh bại và giết hai thủ lãnh Á-Rạp. Ngài kiến thiết hai lãnh thổ nầy. Không bao lâu, dân chúng ở đây trở thành dân A-ri-en, được thạnh vượng và sung sướng hơn trước. Đức Bàn Cổ thâu nạp vào Đế-Quốc của Ngài, Bộ-lạc nầy rồi đến Bộ lạc khác, không phải đổ máu, có khi họ tự nguyện gia nhập nữa.

Bốn chục năm sau, trước khi Đức Bàn-Cổ từ trần thì phân nửa xứ Á-Rạp miền Bắc thuộc quyền cai trị của Ngài, chỉ còn miền Nam chống đối vì cuồng tín, họ quyết giữ theo Giáo-truyền của Đức Bàn-Cổ đã dạy khi xưa là: không cưới gả với người ngoại tộc. Bộ lạc miền Nam họp nhau để chống vị thủ lãnh của họ, nay đã đầu thai lại.

Trong lúc chiến tranh kéo dài rất lâu, Đức Mahâgourou (sau đắc quả được gọi là Phật Gautama) đầu thai trong nhánh dân phụ thứ hai của dân Aryen tại Á-Rạp, để khắc ghi vào tâm não họ một tôn giáo mới mà Ngài đã truyền bá ở Ai-Cập, để cải cách tôn giáo cũ ở đó.

Lúc nầy lối 40.000 năm, trước T.L.một đế quốc Ắt-lăn được kiến thiết tại Ai-cập. Dân chúng văn minh tuyệt đỉnh. Họ xây cất đền thờ đồ sộ, nghi lễ huy-hoàng và có một giáo lý rất cao thâm. Dân Ai-Cập rất mộ Đạo và có Tâm-linh. Khi Osiris băng hà, dân chúng thương tiếc, khóc lóc, cầu xin Ngài trở lại với họ. Đức Mahâgourou lúc đầu thai tại Ai-Cập lấy tên là Tehouti hoặc Thot, đến sau người Hy-lạp gọi là Hermès.

Đức Mahâgourou đã dạy về giáo lý: “Ánh sáng nội tâm” ánh sáng ẩn trong muôn loài vạn vật. Ánh sáng là sự sống của nhơn loại. Người chết là về với ánh sáng, v.v. . .

Trở lại lịch sử nhánh thứ Hai Á-Rạp. Sau nhiều thế kỷ, có một vị vua tham tàn dẫn binh sĩ đến bờ Đại dương, và xưng là Hoàng-Đế Á-Rạp.

Dân chúng miền Nam muốn chống cự nhưng vì tin theo một vị Tiên-tri thô bạo và hùng biện, họ lìa bỏ Tổ quốc bị xâm chiếm, và đến ở vùng bãi biển Somalie, đối diện với xứ Á-Rạp. Họ ở đây nhiều thế kỷ và sanh sản đông đảo, cho đến khi một vị Tiên-tri đang trị vì lại yêu một cô gái mọi, và tuyên bố là: ông không phạm luật nước, cấm người bổn xứ cưới gả với người ngoại quốc. Những cô gái mọi nầy bị đem bán, ấy là một món hàng, là một con vật chớ không phải là đàn bà ngoại quốc. Dân tình phản đối, chống lại lý luận nầy và vầy đoàn đi quanh vịnh Aden, đi lên biển đỏ và đến Ai-Cập.

Hoàng Đế Pharaon biết lý do cuộc đi nầy nên bằng lòng giúp đỡ, cho họ ở một khu xa của Đế-Quốc. Tới sau, có một Hoàng-Đế khác đặt ra thuế mới và phu-dịch (prestations), mà họ cho là bị xâm phạm quyền lợi, nên cùng nhau di cư nữa. Lần nầy họ đến xứ Palestine. Chính họ là dân Do-Thái (Juifs) còn sót, đến ngày nay, họ vẫn còn giữ ý tưởng mạnh mẽ: họ là dân tộc được tuyển chọn, (people élu). Nhân quả do sự cự tuyệt nầy, khiến dân Do Thái luôn luôn chia rẽ với giống dân khác; những Linh-hồn nầy cứ mãi đầu thai trong nhóm nầy, không chịu sang qua giống khác để tiến bộ theo thường lệ.

Việc tốt nhất đưa đến cho họ là họ bi giam cầm ở Babylone, vì đây là lần đầu tiên họ tiếp xúc với một giống dân rất văn minh và nghe nói đến Đấng Tối Cao. Họ rán hiệp nhứt vị Thần-minh của họ với đấng Tối Cao và sanh ra nhiều hỗn độn. Khi họ được tự do, họ soạn kinh sách có thêm ý tưởng cao thượng hơn, tương đối với Đấng Tối Cao.

Đức Jésus Christ (Giáo-chủ Thiên-Chúa giáo) đầu thai vào một xác thân Do-Thái, và những nhà truyền giáo đầu tiên cũng người Do-Thái.

Phần đông nhóm người ở bờ biển Somalie lại bị khốn khổ vì đám săn người để đem đi bán mọi, nên họ phải bỏ nhà cửa di cư khi bị bắt mất cả ngàn người. Họ lại di cư về Á-Rạp và được tiếp đón thân mật.

Dân Á-Rạp, nhánh thứ Hai của giống Aryen sanh sản và mở mang cả ngàn năm, lan rộng gần giáp Phi Châu, trừ vùng đất Ai-Cập. Về sau, họ cũng chiếm luôn và cai trị dưới danh hiệu: những Vua Hyksos.

Mars trở lại đầu thai làm Vua miền Nam Phi Châu. Người ta xây cất lầu đài đồ sộ, điện thờ hùng tráng. Nền văn minh đáng tưởng thưởng.

Sau khi Đế quốc Á-Rạp ở Perse và ở Chaldée (Can-đê) bị suy sụp thì cả mấy trăm năm ly loạn, vô chánh phủ, dân tình bị giết hại.

Đức Bàn Cổ nhứt định cứu vớt họ, bèn đưa nhánh dân phụ thứ Ba đến, để thành lập Đế-Quốc Persans lai Iraniens.



DÂN I-RA-NHEN (IRANIEN)

(Cổ Ba-Tư,- Perse,- Iran)

(Nhánh thứ Ba, giống Aryen)



Khi nhánh thứ Hai (dân Á-Rạp) ra đời được 10.000 năm, lối năm 30.000 trước T.L. thì Đô thành Đại Kiều (Ville du Pont) vẫn còn tráng lệ, mặc dầu đã kém lộng lẫy hơn trước.

Những vị được chọn để đào tạo nhánh dân thứ Ba đều được huấn luyện kỹ-lưỡng

trong nhiều thế kỷ. Đức Bàn-Cổ đã để họ ở riêng một nơi, trong bốn thung lũng, cho đến khi họ trở thành một dân tộc đặc biệt. Ở Ắt-lăn-tít, Đức Bàn-Cổ đã chọn đem theo một số ít người Ắc-ca-den tốt. Nay Ngài cho những Linh-hồn nhóm lãnh đạo đầu thai vào những gia đình còn giữ huyết thống Ắc-ca-den. Vài gia quyến được đưa qua Phương Tây để thâu thập thêm dòng máu nầy.

Dân sự Nhánh thứ Ba nầy càng ngày càng đông, gồm những người mục súc chớ không phải nông gia. Họ có nhiều đàn trừu, bò và ngựa đông đảo.

Lúc đó, diện mạo của Đức Bàn-Cổ đã được sửa đổi rất nhiều. Qua kiếp thứ năm, Ngài đầu thai vào nhánh thứ Ba và để dân sự tiến hóa cho đến khi tạo được một đạo binh có 30.000 chiến sĩ, Ngài sai Mars, Corona và những người tiến hóa cao đầu thai để cầm đầu đạo binh ấy, còn Ngài giữ quyền kiểm soát.

Khi đạo binh đi chinh phục thì đàn bà và trẻ nhỏ đều ở lại thung lũng. Chiến sĩ dùng giáo ngắn hoặc trường thương, mũi lao, đoản kiếm chắc chắn, ná và cung. Họ vượt đèo dãy Thiên Sơn. Dọc đường họ đánh tan các Bộ lạc du-mục phục kích họ. Nhiều làng từ lâu bị cướp phá giết hại, nay rất vui mừng, được những người hùng dũng đến phục hưng và giữ gìn trật tự cho họ.

Đức Bàn-Cổ chiếm xứ Perse (cổ Ba-Tư) dễ dàng, rồi xứ Mésopotamie tùng phục. Đức Bàn-Cổ lập các đồn binh gần nhau và chia đất cho các thủ-lãnh cai trị. Những thành lũy được dựng lên, ban đầu bằng đất, sau bằng đá, trở nên một bức tường kiên cố để ngăn ngừa dân sơn cước xâm lăng.

Nhờ có đạo binh mạnh mẽ bảo hộ, nên dân sự được an cư, lạc nghiệp, chừng đó Đức Bàn-Cổ mới gọi các đàn bà, trẻ con đến.

Ngài còn săn sóc Đế-Quốc mới nầy trong 50 năm nữa, và đề cử người trong gia tộc làm thủ-lãnh. Mars kế vị Ngài và Corona là vua độc lập xứ Perse.

Lúc đó Nhánh thứ Ba tăng tiến mau lẹ. Vài thế kỷ sau, nó bành trướng khắp Tây-Á, từ Địa-Trung-Hải đến núi Pamir và từ vịnh Persique tới bờ biển Aral, dân số có cả triệu người. Đế-quốc nầy tồn tại đến năm 2.200 trước T.L.- Trong thời gian 28 ngàn năm, Đế-quốc nầy có nhiều biến đổi. Khi thì xứ Perse và xứ Mésopotamie có Thủ lãnh khác nhau, khi thì xứ nầy hoặc xứ kia làm bá chủ. Có lúc hai xứ chia thành nhiều lãnh thổ nhỏ. Các xứ nầy mãi bị nạn xâm lăng của dân sơn cước Kourdistan, dân Hindou Kouch, dân du-mục Mông-Cổ. Có khi dân Iranien đánh đuổi được các dân dã man đó, có khi họ phải rút lui. Họ không bị dân Á-Rạp phá khuấy, nhờ có vùng sa-mạc ngăn cách.

Năm 27.900 trước T.L. Đức Mahâgourou (sau nầy là Phật Gautama) đã đến với Nhánh thứ Ba dưới danh hiệu là Zarathoustra thứ nhứt, và thành lập Hỏa giáo. Mars là vị vua thứ 10 của triều đại Corona. Mercure đầu thai làm con trai thứ của Mars và được chọn làm xác thân để Đức Bồ-Tát Chưởng-giáo tối-cao dùng tại cõi Trần. Lúc nầy Sourya (tiền thân của Đức Di-Lạc) là nhà sư danh tiếng trong xứ và uy thế vô biên do tài đức của Ngài, lại là dòng máu hoàng tộc. Hoàng tử Mercure đã được chuẩn bị từ khi còn nhỏ để lãnh cái thiên chức huy-hoàng nầy (cho mượn xác).

Đức Mahâgourou từ Bạch-Ngọc-Kinh (Shamballa) đến đây với một thể tinh vi và nhập vào xác của Mercure. Một đoàn người đông đảo vô cùng, khởi hành từ đền vua và đi về Thánh-Đường. Bên tay mặt, Vua đi dưới một cây tàn bằng vàng, bên trái, Đại Sư Sourya đi dưới một cây tàn khác, nhận ngọc sáng chói, và giữa hai Ngài là Hoàng-tử Mercure ngồi trên kiệu bằng vàng.

Đoàn người dừng lại trước Thánh-Điện. Ba vị trọng yếu bước lên thang. Hoàng-tử đi giữa bây giờ là Đức Mahâgourou. Sourya tuyên bố rằng: “Người ở giữa đây không phải là Hoàng-tử nữa, mà là Sứ-giả của Đấng Tối-Cao, là Khâm Sai của Đức Hồng-Quân, từ Viễn-Đông đến. Với tư cách là Thủ-Lãnh Tôn-Giáo, tôi xin kính cẩn chào mừng Ngài !”

Đức Mahâgourou, trong xác thể Hoàng–Tử, mới nói sứ mạng của Ngài là do lịnh Đức Hồng Quân (Seigneurs du Feu) giao phó. Ngài đem đến cho dân một biểu hiệu sẽ luôn luôn đánh thức Tâm-hồn họ. Ngài giải thích rằng: “Lửa trong sạch nhất trong các nguyên tố. Lửa tinh lọc tất cả mọi vật, và từ nay, Lửa là biểu hiệu của Đấng Tối-Cao. Lửa ẩn trong mặt trời, và nó cháy trong lòng người dầu không ai thấy. Lửa là sức nóng, là ánh sáng, là sự khương kiện và sức mạnh. Trong Lửa, nhờ Lửa mà vạn vật mới sống và hoạt động được. Ngài dạy mọi người phải nhận thấy Lửa ẩn trong vạn vật. . .” .

Đoạn Ngài đưa bàn tay mặt lên, một cây Pháp-Lịnh ở đó, chiếu sáng tỏa ra khắp nơi. Ngài xây đầu cây Pháp-Lịnh qua hướng Đông và lớn tiếng đọc thần chú, tức thì trên Trời hiện ra một vừng lửa rộng và xẹt ngay trên bàn thờ, nơi có để sẵn củi, nhựa thông và hương trầm, một Ngôi Sao chiếu sáng trên đầu Ngài.

Lúc đó các nhà sư và dân chúng đồng quì lạy. Sourya và Vua cũng tỏ lòng tôn kính, cúi mọp xuống chân Ngài.

Đoàn người trở lại đền Vua và dân chúng lượm những bông hoa đã rơi xuống như mưa, sau khi ngọn lửa đi qua. Họ giữ gìn để làm di sản quí báu cho con cháu.

Đức Mahâgourou ở lại trong châu thành một thời gian khá lâu; mỗi ngày Ngài đi đến Thánh-Điện để chỉ dạy các nhà sư. Ngài dạy cho họ biết rằng Lửa và Nước thanh lọc mọi vật, và không được làm cho nó hoen ố. Nước cũng được Lửa tinh lọc nó. Lửa và Nước là hai Linh-hồn. Lửa là sự Sống và nước là Hình dạng, và còn rất nhiều điều nữa.

Qui tụ chung quanh Đức Mahâgourou là một nhóm Chơn Sư uy nghiêm và nhiều người kém hơn, ngày sau vẫn tiếp tục việc truyền bá Giáo-Lý của Ngài.

Sự từ giả ra đi của Ngài cũng cảm động và lạ thường như hồi Ngài mới đến. Đứng trên một nóc nhà bằng, rộng rãi, Ngài dạy dân lần chót mà họ không biết: “Bổn phận con người phải lo mở kiến thức và thực hành lòng Từ-Thiện. Dân chúng phải tuân theo Sourya vì Sourya sẽ là Chưởng Giáo kế vị cho Ngài ! Ngài ban Ân-lành và đưa tay về hướng Đông, hô một tiếng, tức thì một vầng Lửa hiện ra bao quanh Ngài, rồi bay bổng lên và đi về hướng Đông. Ngài đã đi rồi.

Hồn Mercure từ lâu, vẫn ở gần bên, nay nhập vô xác thân của mình, và ở đây yên ổn.

Sau khi Đức Mahâgourou đi rồi, sự thờ Tinh-Tú cũng chưa dứt hẳn, nhưng tin: Lửa là Thiêng Liêng, tiêu biểu cho Mặt Trời. Lần lần sự thờ Lửa càng bành trướng mạnh mẽ ở xứ Perse (Cổ Ba-Tư), các vị Tiên-tri tiếp tục công nghiệp của Zoroastre và Hỏa-Giáo còn mãi mãi tới ngày nay.

(Còn tiếp tập 3)



DÂN XEN-TỜ (CELTES)

Nhánh thứ Tư của giống dân Aryen (20.000 năm trước Tây Lịch)



Vào thời kỳ nầy, giống dân chánh Aryen ở Trung Á-Châu gần suy tàn, nhưng Đức Bàn Cổ rán duy trì phẩm cách, quyền uy và nghị lực cho nguyên điểm của nhánh thứ Tư và nhánh thứ Năm. Lúc trước Ngài đã lựa vài gia đình có giáo dục nhất tại Đô thành, đem cho ở trong một thung lũng riêng biệt. Nhờ đó họ tạo thành một nhánh khác. Đức Bàn Cổ rèn luyện cho họ vài đức tánh mới mẻ, mở mang sức tưởng tượng và tri giác mỹ-thuật, khuyến khích rèn luyện văn chương, tài hùng biện, hội họa và âm nhạc.

Ai có khiếu về nghệ thuật thì khỏi làm ruộng hay các công tác nặng nhọc khác. Họ được ở riêng để luyện tập thêm.

Đức Bàn-Cổ dạy cho dân chúng mở nhiệt tâm và trung thành với các vị lãnh đạo. Ngài cố gắng trong nhiều thế kỷ nên họ có những đức tánh đặc biệt nổi bật của dân Xen-tờ và còn mãi đến nay.

Thung lũng nầy được tổ chức gần như một quốc gia độc lập và nghệ thuật được khuyến khích theo nhiều phương thế. Lần hồi nhánh dân nầy sanh kiêu căng và coi những phần tử khác là phàm tục, vì dân Celtes lịch sự, thanh nhã, có học thức và khéo léo.

Sau khi nhánh thứ Ba đã di cư được 10.000 năm thì nhánh thứ Tư nầy được lịnh đi dọc theo biên giới phía Bắc của xứ Perse và chinh phục miền núi, mà ngày nay gọi là Caucase, có dân dã man và trộm cướp cư trú. Đức Bàn Cổ chẳng những được phép Vua xứ Perse cho tự do đi qua, cung cấp lương thực cho đoàn người quá đông đảo nầy, lại còn giúp thêm một đạo binh hùng cường để trừ nhóm sơn cước. Công việc của Ngài thật vất vả vì đánh tan các Bộ lạc thì rất dễ, nhưng thường bị họ đột kích để phục thù.

Ban đầu nhánh dân nầy lập nghiệp tại khu Erivan, trên bờ hồ Sévanga. Khi dân số được khá đông đảo, họ tiêu diệt các bộ lạc khác, hoặc cho qui phục và chiếm cả vùng Géorgie và Mingrélie. Trong vòng 2.000 năm, họ chiếm luôn Arménie và Kourdistan rồi đến Phrygie, tóm thâu gần hết vùng Asie Mineure và Caucase. Họ trở thành một quốc gia cường thạnh.

Nước của họ gồm những khu xa cách nhau, sự đi lại rất bất tiện, nên họ thành lập một liên bang chớ không phải một Đế-Quốc. Đến lúc họ khai thác tận bờ biển Địa-Trung-Hải, họ cũng vẫn xem Caucase là nơi quê hương của họ, thật ra đó là Trung-tâm thứ nhì đã đưa họ lên đài vinh quang.

Lối 10.000 năm trước T.L. họ lại tiến bước qua hướng Tây, và chia thành nhiều bộ lạc. Họ lần đến Âu-Châu là nơi cư trú cuối cùng.

Đoàn di cư còn bỏ lại một số lớn dân sự tiếp tục việc canh nông. Họ kết hôn với các giống dân khác. Con cháu của họ lai máu Xê-mít, bây giờ là Géorgien.

Nhóm thứ nhất rời Tiểu-Á, (Asie Mineure) để sang Âu-Châu, thành lập dân Hy-lạp thái cổ (Grecs Archaiques) cũng gọi là Pélasge. Người Hy-lạp đầu tiên nầy làm Chúa đảo Chypre và Crête. Họ có thương thuyền to lớn đi khắp vùng. Một nền văn minh sáng chói nổi tiếng ở Crête trải qua cả ngàn năm, cho đến năm 2.000 trước T.L. cũng còn thịnh vượng.

Nhiều thế kỷ đã qua, bờ biển Địa-Trung-Hải chia ra rất nhiều tiểu quốc. Hoàng Đế Poseidonis muốn thôn tính tất cả, nên huấn luyện một đạo binh đông đảo và một đội chiến thuyền mạnh mẽ. Ông chiếm đảo lớn Algérie, đánh phá bờ biển Tây-Ban-Nha, Bồ-Đào-Nha và Ý-Đại-Lợi, áp bức dân tình phải đầu phục. Ai-Cập vì chiến thuyền yếu kém nên sắp sửa đầu hàng.

Nhưng thủy quân Hy-Lạp rất căm tức. Vì Hoàng-Đế Poseidonis chỉ dùng phân nửa chiến thuyền để đi tấn công nên bị Hy-Lạp đánh chìm tất cả. Thuyền của dân Grec nhỏ hơn chiến hạm nặng nề của Poseidonis, nhưng chạy mau hơn và đi nước cạn dễ dàng. Thời tiết lại thuận tiện giúp dân Grec đánh tan tành thuyền địch.

Còn phân nửa hạm đội, họ tấn công một lần nữa, nhưng lại bị bại trận luôn, mặc dầu kỳ nầy dân Grec cũng bị thiệt hại nặng. Hoàng Đế thoát thân, trốn lên đảo Sicile với một đoàn binh. Tin đồn hạm đội Poseidonis bị hủy diệt, khiến dân chúng các nước bại trận nổi lên phản công. Hoàng Đế Poseidonis phải mở đường máu, xuyên qua Ý-quốc để trốn về. Ông giả thường dân để qua khỏi miền Nam nước Pháp, rồi dùng thương thuyền để về xứ. Ông thề quyết sẽ trả thù dân Hy-Lạp, nhưng các bộ lạc trong đảo bất mãn, nổi lên và mộng viễn chinh xâm lược của ông không thành.

Nhờ thắng được Hoàng Đế Poseidonis, nên người cổ Hy-Lạp được nổi danh, không đầy một thế kỷ, họ đã chiếm thêm nhiều nơi.

Năm 9.564 trước T.L. một trận lụt kinh khủng dâng lên do đảo Poseidonis sụp xuống, hủy diệt một phần lớn các kiến trúc Hy-Lạp. Biển Gobi và biển Sahara trở thành Sa-mạc, gây ra một cuộc xáo trộn kinh khủng.

Lời cầu cứu khẩn cấp thấu đến cao nguyên Caucase là vùng ít bị ảnh hưởng tai biến. Tức thì cuộc cứu tế được tổ chức rộng rãi.

Các cuộc kiến thiết sơ khởi của dân Grec đều ở dọc bờ biển, dân chúng ở nội địa ít khi có tình thân thiện với người ở mé biển, mặc dầu các cấp Lãnh đạo Grec luôn luôn tỏ ra có cảm tình. Sau trận Đại-Hồng-Thủy tàn phá, một số ít người sống sót bị dân ở nội địa ngược dãi và bắt làm tôi mọi cho họ nữa.

Sau khi đáy biển Sahara trồi lên thì nước tràn vào khoảng trống giữa Ai-Cập và Tunisie, bây giờ là Tripolitaine. Khi nước hạ xuống thì đảo Algérie dính liền lục địa, trở thành miền Bắc Phi-Châu. Hầu hết các đường thủy không còn đi được, nhưng thế lực dân Grec quá lớn, nên trong vài năm, tất cả các hải cảng ở Tiểu-Á đều hoạt động lại và tiểu hạm đội mới vượt biển để chiếm lại đất đai và giải thoát cư dân Grec nào còn bị ách ngoại bang. Dân Grec chiếm hết các bến tàu quan trọng dọc theo bờ biển mới, và việc thương mãi với Ai-Cập, hầu hết đã ở trong tay người Hy-Lạp. Địa Trung Hải là biển của người Hy-Lạp trong nhiều thế kỷ. Họ lại buôn bán sang miền Đông, đến Java lập một thuộc địa và liên lạc được một thời gian lâu. Về sau, người Phénicien và Carthaginois chia bớt mối lợi ở Địa-Trung-Hải của dân Hy-Lạp.

Người dân Phénicien có dòng máu dân Xê-mít và Ăc-ca-den (nhánh thứ 5 và thứ 6, Ăt-Lăn) còn người Carthaginois là dân Akkadien lai Á-rạp và chút ít dòng máu người Mọi.

Nhánh dân thứ Tư (Celtes) cứ tiếp tục di cư qua Âu-Châu nên khó mà chia ra từng đợt riêng biệt. Nếu người ta cho là dân Hy-Lạp cổ di cư đợt thứ nhất thì đoàn ở Albanie đi đợt thứ nhì, đoàn ở Ý-Đại-Lợi di cư đợt ba. Hai đoàn sau ở yên đó cho đến ngày nay.

Rồi cách một khoảng thời gian sau, đoàn thứ tư có một sức hoạt động phi thường, các nhà nhân chủng học tân thời gọi là dân Celtes (Xen-tờ). Họ mở rộng bờ cõi lần lần lên miền Bắc Ý-Đại-Lợi, trọn cả nước Pháp, nước Bỉ, Anh Quốc, miền Tây Thụy-Sĩ và Đức Quốc ở phía Tây sông Rhin.

Đoàn di cư thứ năm choán miền Bắc Phi-Châu. Đoàn nầy chung sống với đoàn thứ tư ở bán đảo Tây-Ban-Nha, sau 2 ngàn năm mới nhập với đoàn di cư thứ sáu để thành lập dân Irlande. Đoàn di cư thứ sáu từ Asie- Mineure lên miền Tây-Bắc, đến Scandinave lai giống với dân Tơ-Tông (nhánh thứ năm) rồi đi xuống Irlande nhập với đoàn di cư thứ năm, sử gọi họ là Tuatha de Danaan, và trình bày họ như thần thánh chớ không phải người.

Dân Tuatha de Danaan rất đẹp, mặt trái xoan, da trắng, tóc thường sậm màu và mắt sâu màu xanh hoặc hơi tím. Có người tóc dợt hơn và mắt xám, nhưng mẫu người thứ nhất đông hơn, và ngày nay còn gặp họ ở Irlande. Họ rất khôn ngoan và có đạo đức. Thời kỳ họ thống trị ở đây là thời đại Hoàng-kim. Xứ Irlande là trung khu của một nền văn minh cao nhất và là trung tâm của Triết-học, trong khi đó thì Anh Quốc còn đầy rừng rậm và dân dã man.

Về sau dân Milésien ở Tây-Ban-Nha đến xâm lăng và thắng được dân Tuatha de Danaan, mặc dầu họ kém thông minh hơn, nhưng họ to lớn mạnh khỏe hơn và giỏi về tà thuật. Đầu họ tròn như quả cầu, diện mạo thô bạo và rất xấu xí, tóc đỏ hoe. Hiện nay dân nầy còn sót ở miền nam Irlande.

Dân Anh-quốc thì kịch cợm và thực tế, còn dân Irlande thì đầy mơ mộng và giàu tưởng tượng. Người dân quê Anh-quốc bực trung sống hoàn toàn theo vật chất. Dân quê Irlande tầm thường, ở miền Nam và miền Tây thì thích đời sống mơ mộng. Tư tưởng của họ thường viễn vông, vì họ say mê các chuyện cổ tích hoặc lịch sử, các thánh, thần hay tiên nữ.

Sau trận Đại-hồng-thủy năm 9.564 trước T.L, một số người Hy-Lạp cổ đến lập nghiệp ở Hellade. Thành phố Athènes đầu tiên được xây cất vào năm 8.000 trước T.L., còn thành phố Athènes mà sử ghi chép thì xây cất sau, cũng ngay chỗ cũ, lối 1000 năm trước T.L. và đền Parthenon thì được dựng lên năm 480 trước T.L.

Nơi đây, Đức Mahagourou đến với nhánh dân thứ Tư, dưới danh hiệu là Orphée, sáng lập môn phái Huyền bí tuyệt diệu ở Hy-Lạp, Ngài đến đây vào năm 7.000 trước T.L. với tư cách một danh ca. Thường thường Ngài cư ngụ trong rừng, các đệ tử qui tụ chung quanh Ngài, thích đời sống thiên nhiên, xa lánh thị thành và các nơi đô hội.

Ngài giáo hóa bằng lời ca và tiếng nhạc, với một nhạc cụ 5 dây, chắc nó là nguồn gốc sanh ra cây đờn thất-huyền của Apollon và dùng âm giai 5 giọng. Nhờ ca nhạc, Ngài sửa đổi thể Vía và Hạ-Trí của Đệ-tử, tinh-luyện nó và làm cho nó phát triển. Nhờ âm-nhạc, Ngài giúp cho Đệ-tử xuất hồn khỏi xác thịt và tự do hoạt động trên các cõi cao. Nhạc điệu của Ngài khác hẳn các loại âm thanh, nhờ lặp đi,lặp lại nhiều lần nên kết quả thâu thập được cũng tốt đẹp như giống dân chánh ở Ấn-Độ. Đức Orphée dùng nhạc điệu dịu dàng để kích thích các Luân-xa làm cho cái Phách trở nên linh hoạt.

Ngài chỉ cho Đệ-tử thấy những quang cảnh sống động nhờ nhạc điệu tạo thành. Ngài dạy rằng Âm thanh ở trong vạn vật, nếu con người trở thành nguồn suối điều hòa thì SỰ ĐIỀU HÒA THIÊNG LIÊNG sẽ biểu lộ do con người và tất cả muôn loài vạn vật sẽ được vui mừng.

Quanh Ngài, người ta tạo ra nhiều chuyện Thần Tiên và truyền ra khắp nơi. Ngài là Thần Thái-Dương, là Phoebus-Apollon và ở miền Bắc là Balder tuấn tú.

Như thế, Đức Mahagourou đầu thai vào các nhánh dân liên tiếp lấy xác Vyâsa, Hermès, Zarathoustra và Orphée, Ngài dạy về giáo-lý Mặt trời, Ánh sáng, Lửa và Âm-Thinh, nhưng tất cả đều tượng trưng cho sự Sống duy nhất, tình Bác-Ái tuyệt đối.

Từ Hellade, nhiều vị Đệ-tử sang Ai-Cập và kết bạn với các vị Sư Ánh Sáng nội tâm, có vài người sang Java.

Gần 7.000 năm sau, Đức Mahagourou đến với dân cũ của Ngài, lần chót tại Ấn-Độ, trong xác thân Gautama Shidarta. Ngài đắc quả chánh đẳng chánh giác, và thành một vị PHẬT.



DÂN TƠ-TÔNG (TEUTONS)

Nhánh thứ Năm của giống Aryen.



Trở lại năm 20.000 trước T.L. ta thấy nhánh thứ Năm được đào tạo đồng thời với nhánh thứ Tư, mặc dầu phương pháp khác nhau. Đức Bàn-Cổ đã để họ ở riêng trong một thung lũng, xa Đô-thành Đại-Kiều, phía Bắc biển Gobi (Qua-Bích). Dân nầy có lai giống những mẫu người tốt của nhánh thứ Ba ở Perse và người Xê-mít ở Á-Rập.

Ngài chọn một cách đặc biệt những người nước da sáng sủa và to lớn, và khi Ngài đầu thai vào Xác thì các đặc-tính lộ ra rõ ràng. Chính Đức Bàn-Cổ phải đầu thai vào mỗi nhánh dân để sửa đổi hình dạng xác-thân đúng theo kiểu mẫu của Ngài định.

Nhánh thứ Năm rất khỏe mạnh, dẻo dai, to lớn hơn nhánh thứ tư, vóc cao, da sáng, đầu hơi dài, tóc vàng hoe và mắt xanh.

Đặc tính của nhánh thứ Năm nầy rất khác nhánh Celtes. Dân Tơ-Tông(Teutons) cứng đầu, nhẫn nại và nhiệt tâm. Họ không thích nghệ thuật mà ưa thực tế, làm nghề vất vả, ngôn ngữ đơn giản và ngay thẳng, cụ thể hơn là thơ mộng.

Nhánh dân thứ Tư và thứ Năm (Celtes và Teutons) rời khỏi thung lũng của họ một lượt, vào năm 20.000 trước T.L. và đồng đi ngang qua xứ Perse, mặc dầu số-phận sau cùng của họ rất khác nhau.

Nhánh thứ Năm không đông đảo, lần theo bờ biển Caspienne rồi lập nghiệp tại Daghestan và sanh sản thêm trong mấy ngàn năm. Họ đi theo triền núi phía Bắc Caucase và choán vùng Terek và Kouban.

Sau trận lụt 9.564 trước T.L. một ngàn năm, họ đi xa để khai thác thế giới.

Các đầm lầy ở Trung Âu-Châu bấy giờ đã có thể đến ở được. Nhóm di cư tiến về miền Tây Bắc, cho đến Cracovie (Ba-Lan) và ở đây nhiều ngàn năm. Bệnh hoạn lại phát sanh vì đất đai chưa thật khô. Từ trung tâm Cracovie nầy, đoàn di cư phân tán nhiều kỳ nữa. Kỳ thứ nhất, một nhóm dân Slavons đi về hướng Đông và hướng Bắc. Sau họ trở thành dân Nga tân thời. Nhóm khác đi về hướng Nam và ngày nay trở thành dân Croates, Serbes và Bosniaque. Kỳ thứ nhì dân Letton đổi chỗ, nhưng không đi xa và bây giờ là dân Letton, Lithuanien và Prussien. Kỳ thứ ba dân Germain, đặc biệt là Teutons tràn lan vùng Nam nước Đức, những người khác lên phía Bắc và trở thành dân Goths và Scandinave.

Sử sách cận đại có cho ta biết sự suy kém của dân Scandinave ở miền Normandie, dân Goths ở miền Nam Âu-Châu và sự phân tán của nhánh thứ Năm di cư sang Úc Châu, Bắc Mỹ Châu, sự thiết lập uy- quyền ở Ấn-Độ là nơi đã đào tạo ra giống dân chánh thứ Năm, Aryen.

Nhánh dân thứ Năm (Tơ-Tông) còn phải tiếp tục xây dựng phần đất lan rộng khắp hoàn cầu theo như tiền nhơn của họ đã phác họa.

Lần lượt theo thời gian, Quốc gia vĩ đại của nhánh dân nầy sẽ đến tuyệt đỉnh, các vị thiên tài sẽ đầu thai vào để nâng cao sự vinh quang về văn học và khoa học cho đến khi vượt qua khỏi mức tiến bộ của 4 nhánh trước và đạt đến trình độ phi thường cao hơn dân Ắt-Lăn nữa.

Thánh ngữ của giống dân chánh thứ Năm (Aryen) là AUM (đọc Ôm), và thánh ngữ của dân Ắt-Lăn là TAU (đọc Tô). Người ta cho biết những Thánh ngữ là tiếng gồm có một chữ, riêng thuộc cho mỗi giống dân chánh, chính là một danh từ thiêng-liêng.

Mỗi giống dân chánh phải khai triển một đức tánh riêng. Giống dân chánh thứ NĂM phải mở HẠ-TRÍ, tìm hiểu sâu xa những sự khác biệt trong vạn vật. Khi người mở Trí đầy đủ thì người ta bình tĩnh để ghi nhớ các sự khác biệt và nhận định cái nào có giá trị hơn cả. Khi Hạ-Trí còn kém như hiện nay, chúng ta thường tìm những sự khác biệt không phải để học mà để phản đối nhau, hoặc phá rầy những người không đồng ý kiến với mình. Đến một ngày kia, dĩ nhiên chúng ta sẽ tiến lên cao hơn nữa. Dân Aryen còn kém, việc làm chủ giác quan, họ mở rộng sức mạnh lý-trí mà người Ấn-Độ gọi là CHIT hay là TRÍ HUỆ.



DÂN ARYEN SUY BẠI Ở ẤN-ĐỘ



Từ 40.000 đến 20.000 năm trước T.L. dân chánh Aryen lần lần xuống dốc. Bấy giờ Đức Bàn Cổ và các Phụ-tá bận đầu thai vào các nhánh dân phụ. Đế-quốc thuộc Đô thành Đại-Kiều (Ville du Pont) đã thâu hẹp lại. Dân Mông Cổ và Touranien lấy lại sự độc lập. Dân chúng không kiến thiết nữa, họ ở trong những lâu đài đổ nát của ông bà. Các Linh hồn tấn hóa cao cũng đi đầu thai vào các nhánh dân phụ nên nền văn minh của dân chánh phải suy tàn lần lần. Thương mãi gần như không có, chỉ còn trồng tỉa và chăn nuôi.

Năm 18.800 trước T.L. công việc đào tạo các nhánh dân phụ đã xong, Đức Bàn-Cổ trở lại lo cho giống dân chánh ở Ấn-Độ. Văn minh Ấn-Độ do gốc Ắt Lăn, nhưng nó đã chìm sâu trong sự xa hoa cực độ, nhu nhược. Những người thượng lưu gốc Toltec thì vô tình và lo tìm sự vui sướng. Những điểu tốt đẹp chỉ còn sót trong văn chương và một phần lớn khẩu truyền về khoa học Huyền-Bí đều được giữ gìn dành cho sự nghiệp tương lai. Tài sản trong nước bị hoang phí và không còn óc chiến đấu nữa.

Thế là cần phải dời toàn thể giống dân ra khỏi Trung Á-Châu vì các lý do sau đây:

1/- Bạch-Ngọc-Kinh phải được tĩnh mịch đặc biệt.

2/- Ấn-Độ phải được đồng hóa Aryen.

3/- Dân sự được bảo vệ khỏi cuộc Đại Hồng Thủy gần kề, nó sẽ thay đổi to tát vùng Trung Á-Châu.

Năm 18.875 trước T.L. Đức Mars dắt dân chúng của Ngài vào Ấn-Độ, theo ý định của Đức Bàn-Cổ. Ngài được sự tiếp đãi nồng hậu của Viraj, là vua miền Bắc Ấn, mang tên Podishpar. Đức Mars gả con gái cho con trai của Podishpar, nên sự thân thiện càng thắt chặt. Miền Nam Ấn Độ thì Đức Saturne cai trị, mang tên là Huyaranda hoặc Lahira. Đức Sourya là nhà Sư tối cao trong nước lấy tên là Byar-Sha, đã biết trước nhóm di cư nầy sẽ đến nên vua tiếp rước họ nồng hậu. Đức Sourya gọi người ngoại quốc mũi quặm từ Bắc đến có nhiều hạnh kiểm tốt cần thiết trong Đạo-đức và sẽ giữ gìn làm di sản. Những người nhận lãnh được món quà nầy sẽ trở thành các nhà Sư và là tổ tiên của giai cấp Bà-La-Môn ở Ấn-Độ miền Nam. Những người khác kết hôn với quí tộc Tôn Téc và lần hồi đồng hóa dân Aryen trong giai cấp cao. Sau, con trai thứ của Đức Mars lên ngôi vua. Từ đây người ta gọi dân di cư nầy là nhánh thứ nhất (Indo Aryen) như đã nói ở trước.

Đến năm 13.500 trước T.L. dân Aryen Ấn-Độ miền Nam lãnh trách nhiệm ở Ai-Cập theo lịnh của Thiên-Đình. Dưới quyền điều khiển của Đức Mars, đoàn người đi xuống đảo Tích Lan, vượt Hồng-hải (Mer rouge, lúc đó chỉ là một cái vịnh nhỏ) và đến Ai-Cập. Nền văn minh ở đây cũng đã cao, Đức Sourya lúc nầy là Đại Sư ở Ai-Cập, nên khuyên vua Pharaon tiếp rước đoàn di cư và sau lại gả con gái cho Đức Mars và chỉ định Đức Mars kế vị cho Ngài. Khi Pharaon tạ thế thì ở đây thành ra Triều Đại Aryen và trị vì vẻ vang được cả ngàn năm, cho đến chừng Poseidonis bị chìm mất, dân Ai Cập bị nước lụt đuổi họ lên miền núi. Không bao lâu nước rút xuống thì xứ Ai-Cập lần lần trở lại phồn thịnh như cũ.

Ở Ai-Cập, máu Aryen thấm nhập vào nhiều bộ lạc Đông Phi. Đức Bàn Cổ cũng đưa các kiều dân Ấn-Độ sang Java, Úc Châu và các đảo Polynésie.

Vụ loạn lạc năm 9.564 trước T.L. làm đổ nát Đô-Thành Đại-Kiều và tàn phá một số lớn các đền thờ ở Bạch-Đảo. Nhóm di cư chót không sang được Ấn-Độ dễ dàng. Họ phải ở trễ lại Afganistan và Balouchistan, cả vài ngàn năm và phần đông bị dân Mông-Cổ sát hại.

Muốn ngăn ngừa dòng máu Aryen khỏi bị tiêu mất trong đại đa số dân Ắt-Lăn và Lê-muy-ri, Đức Bàn-Cổ lại cấm dân Aryen kết hôn với ngoại tộc. Vì mục đích nầy nên năm 80.000 trước T.L. Ngài tổ chức hệ thống giai cấp. Ban đầu có 3 giai cấp :

1/- Bà-La-Môn hay là Aryen thuần-túy, da trắng.

2/- Rajan hay là Aryano Tôn-téc, da đỏ.

3/- Vish, hay là Aryano Mông-Cổ, da vàng. Đến sau những người không có dòng máu Aryen thì gọi là Shoudras (Su-tra).

Năm 2.200 trước T.L.một chiến tướng Mông-Cổ xuất hiện, dẫn binh đi tàn sát tất cả dân chúng nào mà họ gặp ở Á-Châu.

Gần một thế kỷ sau, dân Aryen ở thung lũng kéo hết về xứ Perse. Họ dùng ngôn ngữ Zend (Ba Tư) và việc họ đến đây trễ, giải thích tình trạng phi-thường của xứ sở và giai đoạn chót của Hỏa Giáo. Nhánh dân thứ Ba còn sống sót sau lúc ly loạn cũng về nhập chung ở xứ Perse, thành ra dân Ba-Tư sau cùng.



NHÁNH THỨ SÁU

CỦA GIỐNG ARYEN



Nhánh thứ SÁU nầy đã bắt đầu sanh ra mau lẹ ở Úc-Châu và Mỹ Châu, (chưa có tên). Có vài người cô lập, ở rải rác trong các xứ rất xưa. Những người bị chết trong trận giặc sau cùng, đã đầu thai lại. Người nào thuộc về nhánh dân mới mà còn ở tại các xứ cũ phải đương đầu với nhiều khó khăn, vì áp lực của quan niệm xa xưa và thói quen cổ hủ.

Nhiều hội-viên Thông-Thiên-Học đã đầu thai vào nhánh dân mới nầy, trong khi đó thì những người khác muốn ở lại trong nhánh thứ Năm để giúp dân chúng được hoàn thiện. Những vị khác theo cận kề các bực kỳ tài để tu đến mức cực điểm.

Khi một nhánh dân mới ra đời thì phải sửa đổi thân xác, cảm tình và trí thức để hợp với trình độ tiến hóa. Đức Bàn-Cổ đã dùng sức mạnh Ý-CHÍ và TƯ-TƯỞNG để sửa đổi xác thịt của trẻ con khi thuận tiện. Những vị Đệ-Tử Tiên, đã được lịnh lo huấn luyện trẻ nhỏ cho hợp với nhánh dân mới. Công nghiệp nầy ngày nay chưa đáng giá gì, nhưng sau vài thế kỷ nữa, nó sẽ tiến tới tột độ, cho đến khi nhánh thứ Sáu được rạng danh kỳ diệu, trong khi đó nhánh thứ Năm cũng còn tiếp tục tiến bộ đến mức cuối cùng.

Nhánh thứ Sáu sẽ sanh ra từ trong dân chúng nhánh thứ Năm. Các đặc tánh mới, cần thiết, sẽ phát triển lần lượt, tánh nầy rồi tánh kia trong các Linh Hồn, và phải cần nhiều kiếp mới xong. Xác thân nhánh dân nầy sẽ không đồng một kiểu mẫu. Họ thuộc về dân có đầu dài, nhưng người thì tóc vàng hoe, người thì tóc sậm, con mắt xanh hoặc nâu. Nếu đặc điểm về tình cảm cao thượng và trí thông minh của họ là trọng yếu, người ta cũng còn xét thấy được họ ở thể xác, như: Bàn tay và bàn chân tuyệt đẹp, ngón tay thon thon, phao móng tay hình bầu dục. Làn da sáng và mịn màng. Nhìn ngang một bên mặt thấy có 3 kiểu mẫu: 1/- Gương mặt trái xoan rõ ràng và trán cao. 2/- Mặt kém vẻ trái xoan hơn, trán rộng. 3/- và một mẫu người rất ít gặp là người có chỏm đầu ngắn(brachycéphale) nghĩa là bề rộng cái sọ được bằng 4 phần 5 bê dài. Nếu ai để ý thì rất dễ nhận ra nhánh dân nầy.

Năm 1923, Đại-Úy Pape viết một bức thơ cho Hội-Đoàn Anh Quốc về vấn đề giống dân mới lai Úc-Mỹ, có nhấn mạnh mấy điểm nầy: “Phần trên cái đầu, từ trán trở lên thì tròn, tóc và làn da đều mịn màng, cặp mắt sáng long lanh và thông minh, nhưng không to lắm, chơn mày nổi cao. Gương mặt hơi như ba góc, nhưng không nhọn. Nết na dịu hiền, điều độ và cao thượng. Trẻ nhỏ thuộc giống dân mới nầy có đầy lòng thiện cảm, từ bi, trực giác nhuệ-mẫn, thành thật, nhạy cảm, rất công bình, sốt sắng giúp người chớ không phải nói đẩy đưa bề ngoài. Họ rất ghét những món ăn thiếu tinh khiết và không bao giờ có tánh thèm khát, ham ăn. Đây là những trẻ khác thường, phải cần có giáo sư thiện cảm và thông hiểu để dìu dắt”.

Đặc tánh của nhánh dân thứ Sáu là sẵn sàng để hợp nhất, tức tánh tốt mà chúng ta gọi là TÌNH HUYNH ĐỆ , bao hàm lòng Từ-bi và sự hy sinh. Điều cần kíp là mở các tánh tốt của Tâm-Linh chớ không đòi hỏi nhiều về trí thức, vì Tâm Linh thì hiệp nhứt, còn trí thức thì chia rẽ. Họ có kiến thức rộng rãi và lòng bao dung vô cùng. Các điều nào hẹp hòi, cố chấp, các điều nào làm chia rẽ kẻ nầy xa những kẻ khác, điều nào đánh dấu sự dị dồng, đều phản lại thuyết Tâm-Lý-Học mới nầy.

Thần kinh hệ của họ sẽ rất tinh vi, dĩ nhiên không phải là tánh chất bệnh hoạn. Tuy nhiên, vì sự tinh vi đó nên dễ bị thương tổn và đụng chạm. Như thế trẻ nhỏ dễ mất bình tĩnh và sẽ đau khổ một cách lạ thường. Vậy giống dân mới cần có một hoàn cảnh êm ái, dịu dàng, vui tươi hơn cảnh ta thường thấy ở các Đô-thị. Những cuộc đấu tranh, sự chống đối của các giai cấp, những sự cạnh tranh thương mãi, đều làm hại sự phát triển của loại thần-kinh-hệ mới nầy.

Trong nhánh dân thứ Sáu mới nầy, các công tác sẽ theo sự hiệp nhứt của nhiều người đồng mục tiêu chớ không phải một kẻ dùng bạo lực để ép dân chúng phải theo ý mình. Những vị cầm đầu sẽ dìu dắt kẻ khác theo lòng thương mến, cảm tình và sự thông hiểu. Họ có thể dung hòa các ý kiến và các tánh nết, họ có thể qui tụ quanh họ các phần tử khác nhau và làm cho hiệp nhứt.

Tánh nhu nhược thường hay nổi nóng của nhánh thứ Năm là nguồn gốc sự thiếu nhẫn nại, nay trở thành tánh dịu hiền và bảo vệ. Tình cảm yêu đương và bạc nhược kèm theo tánh chất hèn hạ kém sáng suốt không phải là lòng từ-bi. Lòng từ bi thật sự là phải giúp đỡ, có cảm tình vì biết rõ, phương thuốc chữa trị nhờ sự thông suốt đưa đến.

Nhánh thứ Sáu sẽ có vài phép thần thông, cho nên hạch mũi sẽ phát triển và giúp con người mở được một giác quan phụ là nhận biết các mối cảm xúc của thể Vía trong khi còn thức. Đại để chúng ta có thể nói là nhánh dân thứ Sáu Aryen có trực giác và Minh-triết, nhờ hợp nhứt được trí thức của nhánh thứ Năm và cảm xúc của nhánh thứ Tư. Phần đông Linh-Hồn đầu thai vào nhánh thứ Sáu là hội-viên Thông-Thiên-Học. Mục đích chánh không phải là mở trí, mặc dầu nó cũng quan trọng, mà là mở vài sự đáp ứng với ảnh hưởng cõi Bồ-Đề. Vậy trực giác của lòng từ ái sẽ nảy sanh sự điều hòa và tình Huynh-Đệ để sau sẽ dùng Trí-huệ đã mở mang đó đặng xây dựng một nền văn minh mới theo một lý tưởng mới. Hội Thông-Thiên-Học có liên quan mật thiết với các cõi trên, nên nó sẽ rất nhạy cảm với các ảnh hưởng của thần lực mà Đức Chưởng-Giáo phóng ra khi Ngài giáng lâm. Hội thâu nhận trước nhứt thần lực rất dồi dào, nên nó có sức thúc đẩy mới để đưa nhơn loại tiến lên. Công tác sẽ cứ phát triển và tràn lan ra mạnh mẽ cũng như tình Huynh-Đệ càng mở rộng. Chừng nhánh thứ Sáu tiến bộ cao rồi thì nhánh thứ Bảy của Aryen mới sanh ra.

Đến khi nhánh thứ Bảy Aryen tàn rồi thì công tác về giống dân chánh thứ Năm Aryen mới xong. Đức Bàn-Cổ Vaivasvata, Đức Bồ-Tát Di-Lạc (Maitreya) và Đức Văn-Minh Đại-Đế sẽ mãn nhiệm kỳ. Các Ngài sẽ được 8 lần Điểm-Đạo và lên cấp bực PHẬT.



GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ SÁU VÀ THỨ BẢY.



Theo Thiên-Cơ thì nhánh thứ Sáu của giống dân chánh thứ Năm Aryen sẽ sanh ra giống dân chánh thứ Sáu (6è race mère).

Giống dân chánh nầy sẽ ngẫu nhiên chiếm một lục địa, hiện mới nổi lên chậm chạp, mảnh đất nầy rồi đến mảnh kia trong Thái-Bình-Dương. Trong nhiều ngàn năm nữa thì Bắc Mỹ-Châu sẽ bị phân cắt ra nhiều mảnh. Giải đất cực Tây của Huê-Kỳ là nơi khởi sanh giống dân chánh thứ Sáu, sẽ trở thành miền cực Đông của Tân-Lục-Địa.

Trong khi một thiểu số dân sẽ là căn nguyên của giống dân mới thì giống dân chánh thứ Năm Aryen đã tiến lên đến cực độ. Tất cả vẻ tráng lệ, tất cả vinh quang trên Trần thế đều gom về cho họ. Giống dân mới sẽ là một nhóm khốn khổ trước mắt thiên hạ, một đoàn người gàn, một lòng nhiệt tâm mù quáng đối với các Lãnh tụ của họ.

Hoàng Đế Mars, - ngày nay là Đức Đế-quân Moria - sẽ là Đức Bàn-Cổ của Giống dân Chánh thứ Sáu và Đức Mercure, hiện tại là Đức Đế-Quân Kout Houmi, sẽ lãnh chức vị Bồ-Tát Chưởng -Giáo.
Những người xứng đáng, đã chú ý về Huyền-bí-học và đã có những đức tánh hơi đặc biệt trợ giúp Đức Bàn-Cổ thành lập giống dân mới. Vậy cần nhứt là tập cho được tánh TỰ-CHỦ đúng đắn, gồm có sự HY-SINH cao cả cùng hoàn toàn tin cậy sự Minh-Triết của các Lãnh-Tụ.

Những học-giả Huyền-bí-học biết rằng: nhờ Huệ-nhãn mà ta có thể thấy được sự vị-lai, cũng có khi thấy được nhiều chi tiết. Đức Giám-Mục C.W. Leadbeater quả quyết rằng: nhờ nhãn quang mà Ngài thấy được một phần lớn các yếu kiện để thành lập giống dân chánh thứ Sáu.

Trong quyển” L’Homme, d’où il vient, où il va (Con người từ đâu đến và đi về đâu)”, Ngài đã tường thuật vô cùng lý thú và thật đầy đủ những điều Ngài đã thấy. Tại đây chúng tôi chỉ xin tóm lược ít điều cốt yếu.

“Giống dân chánh thứ Sáu sẽ lập căn cứ tại Californie, trong vòng 700 năm nữa. Một khu vực cộng đồng rộng lớn và đẹp đẽ sẽ được đặt dưới quyền trông nom của Đức Bàn-Cổ và các vị Phụ tá. Người ta sẽ xây dựng ở đây những lâu đài lộng lẫy gồm một đền thờ ở trung tâm cùng những dinh thự rộng lớn để làm thư-viện, bảo tàng viện và những phòng hội họp. Chung quanh còn có lối 400 biệt thự. Người ta trang bị một số lớn máy móc phức tạp, nhưng dân chúng học tập rất mau thông thạo, để rồi tự chế tạo và sửa chữa các vật dụng cần thiết. Như thế họ trở nên hoàn toàn tự túc và độc lập. Nhưng dân chúng trong khu vực cộng đồng vẫn liên lạc với khắp thế giới và luôn luôn tìm hiểu rành rẽ tất cả các sự khám phá và phát minh mới, cùng những sự cải thiện các máy móc.

Đức Bàn Cổ cũng đầu thai ở đây để đào tạo và giúp cho Xác thân dân chúng được đúng theo kiểu mẫu đã định cho giống dân chánh thứ Sáu. Trong vòng 150 năm sau, dân số sẽ lên đến 100 ngàn người, hầu hết là con cháu của Đức Bàn-Cổ. Chính Đức Bàn-Cổ có 12 người con và mỗi người sanh ra dưới một cung Hoàng-Đạo riêng biệt. Gia đình đông con là Luật chung vì dân nầy không có người chết trẻ.

Khu vực cộng đồng đóng thuế pháp định cho Chánh phủ Quốc gia để dân cư được yên ổn tự quyết tự túc. Quần chúng ở vùng lân cận rất kính mến và cho rằng đời sống ở đây rất đẹp đẽ và thú vị, mặc dầu sự khổ tu có thể là ít cần thiết và còn xa lạ đối với họ. Người ta được tự do lui tới viếng thăm nhau, nhưng người trong khu vực không được phép kết hôn với người ngoài.

Dân sự ở đây được tuyển chọn thật kỹ lưỡng trong các dân đã chọn lựa khi trước. Họ hiểu biết rõ ràng công vụ của vị Lãnh tụ tức là Đức Bàn-Cổ nên họ hoàn toàn trung thành và biết là họ đang tạo thành một giống dân mới. Họ tron tin nơi Đức Bàn Cổ, họ quen sống vị-tha để tận tâm thi hành theo ý-chí.

Uy quyền của Đức Bàn-Cổ thì tuyệt đối. Nhóm Phụ tá gồm có 12 vị Đệ tử cao, có vài vị đã đắc quả Chơn-Tiên. Người ta lo thí nghiệm không ngừng để đem sự hạnh phúc và lợi ích cho dân chúng. Ở đây không có tòa án, không có lính cảnh sát vì không có kẻ sát nhơn hay hung dữ, cướp giựt. Chỉ có một hình phạt là trục xuất ra khỏi lãnh vực, nhưng không hề có ai để bị phạt. Mỗi người đều có được ít nhiều thần thông nên tất cả đều biết rõ tác dụng của thần lực mà họ nhận được và sự mở mang vô cùng cao cả của Đức Bàn-Cổ cũng như các vị Lãnh tụ khác.

Nhiều điểm mà ngày nay chúng ta mới hiểu sơ sài thì chừng đó họ sẽ thông hiểu hoàn toàn và thâm sâu. Đời sống sau khi bỏ xác và bản chất các cõi cao là những đầu đề để học hỏi kinh nghiệm của mọi người. Một số người chuyên về triết học bực cao và siêu hình học, nhưng phần đông thì tỏ lòng mộ Đạo-Đức ở các đền thờ. Họ rất thực tế. Đối với họ thì Khoa-học và Tôn-giáo hoàn toàn hòa hợp với nhau, cùng đồng một mục tiêu là phụng sự quốc gia.

Các Thiên Thần thường đến với họ và giúp đỡ trong đời sống Đạo-đức. Nhờ sự liên lạc thường xuyên và lời giáo huấn của Thiên-thần, họ tiến bộ rất lẹ. Các vị Thiên-thần luôn luôn làm việc dưới quyền của một vị Đại Sư mà hiện giờ là Đức Đế-Quân Kout Houmi. Ngài có trách nhiệm kiểm soát về Tôn-giáo và Giáo-dục. Các đền thờ chia ra làm 4 loại, hạp với 4 đức tánh : 1/- Lòng THÂN ÁI (Affection), 2/- Lòng SÙNG TÍN (la Dévotion), 3/- TRÍ HUỆ (l’Intellect) và 4/- THIỆN CẢM (la Sympathie).

Mục-đích là làm biểu lộ rõ ràng đức tánh hiển nhiên của mỗi người hạp với đức tánh của Đức Thượng-Đế. Mỗi nghi thức có mục tiêu tập luyện tín đồ đến một kết quả nhứt định đã dự liệu. Những ngày hành lễ mỗi năm, hoặc nhiều năm một lần đã truyền dạy kỹ càng để họ thi hành đúng đắn theo trình độ của Hội Thánh hầu nâng cao lý tưởng Tín-đồ.

1/- Đền thờ màu đỏ sậm (cramoisi) chuyên dùng tạo lòng THÂN ÁI, người ta thường dùng các màu sắc có ảnh hưởng đến thể Vía và Kim-thân của tín đồ. Đền thờ nầy hình tròn và một phần lớn để lộ-thiên. Tín-đồ ngồi trên mặt đất, nhắm mắt và tưởng tượng lần lượt các màu sắc, mỗi người theo một thứ tự riêng biệt. Hành vi nầy, mở đầu buổi lễ cầu nguyện để cho thân được yên tịnh, tập trung tư tưởng và điều hòa cùng vạn vật. Kế đó Thiên-Thần hiện ra hình người, dung mạo phi thường, mặc y phục màu đỏ thẵm. Ngài hiện hình trên chót tháp làm bằng những sợi chỉ vàng bạc kết lại, dựng ở giữa đền thờ. Trên đầu Ngài tỏa ra một vừng hào quang chói rạng những màu sắc tiêu biểu một tư tưởng để Ngài tăng thêm thần lực cho cuộc lễ đặc biệt. Thật là rõ ràng cũng như Ngài hiện hình cho người dự lễ đều thấy.

Mỗi Tín-đồ cũng tạo ra một vừng màu sắc như Thiên-Thần song nhỏ hơn và phóng lên cao trước mặt Ngài. Thiên-Thần bèn phát ra một luồng ảnh hưởng xẹt đến Tín-đồ để nâng cao tinh thần họ. Lúc đó các Thiên-Thần ở cõi cao cũng đồng phóng xuống một luồng từ điện nhập vào, hóa thành một vùng hào quang màu đỏ sậm rộng lớn bao trùm cả nhóm Tín-đồ và kích thích mối cảm động, khiến cho tình THÂN ÁI của mỗi người tăng cao tột độ. Thủ lãnh các Thiên-Thần thâu thập các luồng thân ái như thế ở khắp nơi làm thành một con sông BÁC ÁI vĩ đại hiệp nhứt với thiêng liêng, tức thì Đức Thượng-Đế đáp ứng, ban rải Ân-huệ rất dồi dào cho Tín-đồ nhờ trung gian vị Thủ Lãnh Thiên-Thần. Đó là cách hành lễ hằng ngày, chẳng những có ảnh hưởng tốt đẹp cho Tín-đồ mà còn tràn lan các xứ lân cận nữa. Cũng có khi Thiên-Thần thuyết pháp bằng màu sắc, không nói lên một lời nào, chỉ phóng ra những màu sắc đủ loại và biểu lộ các hiệu năng của tình thương đối với kẻ khác. Trong lúc làm lễ, người ta đốt các thứ hương trầm để cảm kích các thể-phách.

2/- Trong các đền thờ màu xanh dương chuyên dùng về lòng Sùng-Tín, người ta hoạt động, nhứt là bằng âm thanh. Sự phát triển thường rất giống như ở đền thờ màu đỏ sậm, âm nhạc dùng để làm yếu tố chế ngự thay cho màu sắc. Mỗi người đem theo một thứ đàn đã được truyền từ điện, tương tự như một phong cầm tròn và dây bằng kim loại sáng chói. Người ta đàn để thâu hút ảnh hưởng tâm linh cõi trên. Cảnh vật chung quanh thấm nhuần từ điện của Thần Âm-Nhạc. Mỗi âm thanh cứ tăng gia như thế và mỗi giọng đàn tạo một vùng âm điệu điều hòa rộng lớn, cao, thấp, dịu dàng và đẹp đẽ nhứt trần gian. Các nghi lễ của đền thờ màu xanh dương cảm nhiễm được cái Vía và Kim Thân của Tín-đồ.

3/- Trong đền thờ màu vàng chuyên luyện Trí-Huệ, có những lễ nghi để tạo những hình tư tưởng có tác dụng cảm động đến thể Hạ-Trí và Nhân-Thể của Tín-đồ đang mài miệt theo tinh thần cao cả. Nhờ kích thích trí não, ban đầu Tín-đồ thông hiểu bao quát, rồi mở được trực giác. Có người xuất hồn ra khỏi Xác, nhiều kẻ khác sang qua Đại-định.

Trong các đền thờ nầy, người ta lo luyện Ý-Chí và có kết quả là nhờ Nhân-Thể (corps causal) phát triển mạnh mẽ. Ý-Chí cũng chế ngự Hạ-Trí và luôn cả óc xác thịt, mặc dầu nó đã cao hơn trí óc của giống dân chánh thứ Năm.

4/- Đền thờ màu xanh lá cây chuyên lo về thiện cảm, có thể xem là tương đương với Pháp Môn Hành-động (Karma Yoga), cũng như đền thờ màu xanh dương và màu đỏ sậm biểu dương Pháp môn Sùng-Tín (Bhakti Yoga), còn đền thờ màu vàng tương đương với Pháp môn Minh-Triết (Jnâni Yoga).

Các nghi thức trong Đền màu xanh lá cây có liên quan với sự cần mẫn hành động. Tín đồ chuẩn bị kế hoạch để giúp đời nhiều cách. Đền thờ đặt dưới quyền các vị Thần chuyên cải tạo.

Tùy theo cách làm việc của Tín-đồ mà thu hút các Thiên-Thần đồng chí hướng. Không có sự sai biệt về việc tiến bộ của Tín-đồ thuộc các Đền thờ khác loại. Cũng có khi Tín-đồ ở loại Đền thờ nầy đến viếng Đền thờ phái khác. Có người không đến Đền thờ nào cả, nhưng không phải là họ bị coi là thiếu Đạo-Đức hay là thua kém các Tín-đồ ngoan đạo nhiệt thành nhứt. Đó là tùy tánh chất mỗi người. Ai nấy đều khoan dung tột bực và hoàn toàn tự do.

Đức Đế-Quân Kout Houmi lãnh trách nhiệm trông nom đời sống tín ngưỡng và giáo-dục trong khu vực. Ngài lần lượt viếng tất cả các đền thờ và thay thế vị Thiên-Thần hữu trách.

Trong lãnh thổ người ta chú trọng đặc biệt về giáo-dục. Muốn cho công tác được dễ dàng, người ta dùng đủ các vật bổ-trợ như màu sắc, ánh sáng, âm thinh, hình thể, điện khí. Các vị Thiên-Thần điều khiển các vị Ngũ-hành để giúp vào công tác một phần quan-trọng. Các vị giáo sư đều có Thần-nhãn. Các Thiên-Thần cũng thường hiện hình đặng dạy dỗ. Dân chúng sau khi chết thì đầu thai lại liền, phần đông nhớ được việc kiếp trước, như thế, những trẻ con bé thơ cũng ý thức được tôn chỉ của lãnh thổ và cố gắng sớm theo chiều hướng của Xác thân mới.

Người ta bận tâm lo mở mang sáng tác và dạy cách thực hành đúng đắn về thị giác. Toán học trở thành rất đơn giản nhờ bảng tính sẵn hoặc máy tính. Chánh tả thành Ngữ âm học, chữ viết rất giống tốc ký nên người ta viết nhanh hơn nói chuyện. Ngôn ngữ thì dùng Anh văn đã biến cải. Không ai cần học Sử ký, Địa lý chỉ học về các giống dân và những nét đặc biệt. Chương trình học đường có tánh cách thực dụng triệt để.

Đứa trẻ 12 tuổi thường nhớ tất cả các điều đã học ở tiền kiếp. Người ta dùng bùa để giúp trẻ khôi phục trí nhớ các kiếp trước.

Người ta tổ chức những buổi lễ dành cho trẻ em tại các đền thờ. Chúng nó hát và chơi những khí cụ để thi hành những cuộc tiến bộ ưu mỹ. Chúng cũng diễn trò nơi một khoảng trống về các hành tinh vận chuyển chung quanh mặt trời. Chúng nó rất vui thích chơi như thế mà cũng hiểu rõ là chúng nó đang hành lễ. Một điệu khiêu vũ khác ám chỉ sự di chuyển đời sống từ dãy Nguyệt Tinh sang qua dãy Địa cầu. Tất cả các giáo lý đều được ghi sâu vào trí não trẻ con bằng phương pháp vừa chơi vừa hành lễ. Các em mặc y phục màu thanh lịch và sáng chói, chúng tập được những sự thao diễn phức tạp phải lắm công phu nhưng đầy cảm hứng. Như thế giáo dục và tôn giáo đã hiệp nhứt không thể tách rời được.

Các quan hệ gia đình đều có sự thỏa thuận trước. Người chết thường là do ý mình muốn, khi thấy không còn hữu ích cho đời nữa. Chỉ trừ trường hợp rủi ro, dân chúng đều chết già, bệnh hoạn dường như không còn nữa, nên đến 80 tuổi chưa có vẻ già nua, thường là sống ngoài trăm tuổi.

Khi người nào thấy sức khỏe suy kém thì y lựa chọn cha mẹ nào thích hạp cho kiếp tới của mình. Nếu những người nầy bằng lòng thì trao cho họ giữ một hộ phù riêng của y, để y luyến ái mà đầu thai lại ở đây. Hộ phù cá nhơn nầy thường là một món nữ trang đã thấm nhuần từ điện của y. Khi y muốn chết thì y dùng ý chí để bước sang qua thế giới bên kia dễ dàng trong một giấc ngủ êm ái.

Rất thường khi họ đến ở tại nhà của cha mẹ tương lai rồi chết tại đó. Không có cuộc lễ ma chay lúc tống táng. Bạn thân cũng không tụ họp đưa đón. Xác chết nhờ chất toan thủy và một thứ điện lực nghiền nát ra bụi mịn và xám.

Giống dân chánh thứ Sáu tự do lựa chọn số phận kiếp sau của mình. Có vài trường hợp rất hiếm, Đức Bàn-Cổ mới sửa đổi kế hoạch nầy khi Ngài không bằng lòng. Thường thường kẻ làm cha mẹ sắp xếp để sanh 10 hoặc 12 đứa con, và số con, trai gái bằng nhau. Trung bình, hai, ba năm mới sanh một lần và sự sanh đôi, sanh ba cũng không ít. Không có ai gầy mòn, suy nhược hoặc tàn tật. Trẻ nhỏ sởn sơ không bị bệnh hoạn hay chết non.

Ngày nay người ta thương mến nhau rồi cưới gả vì sự sanh tồn, nhưng ở đây thì bổn phận đối với lãnh thổ đứng đầu, trên tất cả ưa thích riêng tư. Người ta không còn tình dục tầm thường và chỉ có cuộc kết hôn khi Đức Bàn-Cổ đồng ý. Vợ chồng có mục đích là sanh con để có Xác thân cho Linh-hồn nhập vào tiến hóa. Lắm khi, cặp vợ chồng mới định kết hôn thì đã có hai, ba linh-hồn chờ đợi để đầu thai vào làm con. Tục đa thê đã mất hẳn và không có sự ly-hôn.

Điều vinh-hạnh nhất là được sanh vào gia đình Đức Bàn-Cổ, dĩ nhiên là do Ngài chọn lựa kẻ làm con cháu.

Giống dân chánh thứ Sáu là dân da trắng, mặc dầu có người tóc và cặp mắt

màu sậm. Đàn ông cao hơn một thước tám và đàn bà kém to lớn hơn chút ít. Tất cả đều có bắp thịt rắn chắc và cân đối. Khi tuổi đã cao, họ vẫn giữ được phong thái thung dung, gọn gàng và đầy vẻ đẹp duyên dáng. Mỗi tiểu bang đều có Đền thờ, trường học, dinh thự công cộng, gồm thành những chòm biệt trang, ở cách xa nhau và rải rác trong các hoa viên và vườn tược.

Các nhà và kiến trúc khác thì thường thường trống trải. Người ta có thể làm những bình phong bằng chất trong suốt, che giữa các khoảng cột. Nóc nhà thì tròn, đủ kiểu và đủ cở. Khắp nhà không có góc vì các phòng đều tròn hoặc hình thuẩn. Nhà nào cũng chưng nhiều bông hoa và hình tượng. Nơi nào cũng có sẵn nước. Ban đêm, trên nóc nhà đèn chiếu sáng trưng và đủ màu.

Trong nhà rất ít bàn ghế, người ta ngồi hoặc nằm trên những chiếc gối đặt trên mặt đất lót đá cẩm thạch hoặc cẩn xen loại đá bóng láng khác. Y phục giản dị và đẹp đẽ, hơi giống y phục của người Ấn hay Hy-lạp cổ, may toàn bằng vải. Nam nữ không phân biệt, đều mặc đồ sáng chói. Đầu để trần và đi chơn không.

Giống dân chánh thứ Sáu đều ăn chay trường, và thường dùng bữa nơi nhà hàng lộ thiên. Họ ăn nhiều trái cây của họ sản xuất, rất dồi dào, có khi dùng thức ăn làm sẵn đủ thứ mùi vị thơm tho. Người ta lọc rất nhiều nước biển để phân phát cho dân chúng dùng không hề thiếu. Người ta cũng thêm vào chất hóa học để làm cho nước lọc được mát mẻ, sôi bọt và giải khát.

Mỗi nhà đều có một bộ Bách khoa toàn thơ còn tiếp nối mãi, gồm có phần trích yếu các sự việc quen thuộc, trình bày thật vắn tắt và tinh tường. Ở thư viện địa phương thuộc mỗi Đền thờ, thì bộ Bách-khoa toàn-thơ còn đầy đủ hơn nữa. Trong thư-viện Trung ương, người ta còn thấy có những quyển sách nguyên bản viết bằng Cổ-ngữ.

Nhựt báo thì được thay thế bằng thứ máy gồm có điện thoại và máy ghi chép và in liền thành những trang sách để bổ túc cho quyển toàn-thơ.

Có khi Đức Bàn-Cổ ban bố những sắc lệnh hay tin tức, Ngài nói tại Đền thờ chánh và lời nói của Ngài đồng thời được truyền đạt đến các Đền thờ khác.

Sự nghiên cứu về thú vật và thảo mộc không còn làm hại đến chúng nó nữa. Chỉ dùng thần-nhãn để xem xét, học hỏi. Vì dân chúng không có bệnh hoạn nên không cần bệnh viện. Khoa-học, Thiên-văn học tiến bộ ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Kết quả thâu thập được nhờ sức mạnh trực tiếp của Ý-Chí. Các vị Ngũ-hành cũng hăng hái giúp vào sự sinh-hoạt của dân.

Một số tin tức, thông cáo, loan đi bằng phương pháp thần-giao cách-cảm. Lãnh thổ cộng đồng được tự túc, chỉ còn nhập cảng những bản-thảo xưa, những sách và mỹ-thuật phẩm. Người ta mua các thứ nầy bằng tiền bạc của du khách từ nước ngoài đến chơi, đem xài tại đây, vì dân trong xứ không dùng tiền bạc để mua bán với nhau. Người ta dùng thuật luyện-kim để chế các đồ nữ trang và vàng ròng, rồi có khi cũng dùng nữ trang và vàng ròng nầy để đổi chác lấy đồ nhập cảng.

Mỗi người tự do chọn lãnh công tác chung cho xứ sở. Việc giáo dục được miễn phí, nhưng người ta chỉ chấp thuận cho vào Đại-học những ai có thể thâu thập được sự lợi ích và sự cần thiết cho công tác mà y quyết định thi hành.

Mỗi người nhận một số ‘Bông’(bon) để đổi lấy thức ăn và y-phục. Máy móc thật hoàn hảo, chạy êm ru.

Thời kỳ nầy, khắp hoàn cầu không dùng hơi nóng (Chaleur) để tạo động lực chạy máy. Trước hết, nước lã có sẵn sàng khắp mặt đất để tạo ra điển khí và được chuyển đi đến các nơi thật xa mà không hao mất. Phương cách nầy sau được đổi bằng một phương pháp mới, dùng năng lực của nguyên tử hồng-trần mà ông Keely đã gọi là ‘Force dynasphérique’. Động lực nầy được phân phát vô thường cho khắp nơi và nhiều vô hạn để mọi người tự do sử dụng vào mọi công việc. Như thế không còn sự dơ bẩn nữa. Các nhà máy cũng sạch sẽ, đẹp đẽ như tư gia.

Mỗi người chỉ phải làm việc ba giờ mỗi ngày là đủ bổn phận. Các máy móc cứ

chạy mãi gần như là tự động. Trong các cao lâu, người ta thiết lập một hệ thống luân phiên cho nhân viên. Việc làm bếp cũng có thể gọi là tự động, vì chỉ nhấn một nút điện hay vặn máy chỉnh-lựu là xong. Không còn công việc nào dơ dáy hay thô tục nữa. Không công tác nào bị cho là hèn hạ nữa. Công việc hầm mỏ bị bỏ luôn, vì những món cần thiết đều tạo bằng phép luyện kim. Người ta chế được nhiều loại hợp kim mới.

Công việc đồng áng đều do máy móc thi hành và cũng gần như tự động. Cho đến các loại máy cũng do máy móc khác chế tạo. Về rác rến, đồ dơ thì mỗi nhà có máy chế biến hóa học nghiền nát ra thành bột xám giống như tro. Không còn kẻ đi làm mướn, vì không có việc gì phải thuê kẻ làm. Khi cần thì người ta giúp lẫn nhau. Theo nguyên tắc trong xứ thì tất cả công việc đều làm không lãnh tiền công, nên rất ít có tư sản.

Lối giao thông thì ít có lộ nhỏ mà rất nhiều Đại lộ xuyên qua các công viên. Lòng đường lót bằng đá láng bóng đẹp đẽ như cẩm thạch và kê dính liền như có một tấm đá. Cũng có đường lót bằng đá hường dợt, hoặc màu lục tươi sáng. Mỗi sáng, người ta cho nước chảy tràn trề khắp các đường để cho nó sạch sẽ. Vì khắp nơi đều là cỏ và đá láng bóng, nên dân chúng đi chân không. Tuy nhiên trước cửa mỗi nhà đều có để một chậu đầy nước để rửa chân cho mát trước khi vô nhà.

Mỗi nhà có nhiều xe nhẹ nhàng làm bằng những sợi kim loại, tương tợ như xe chỡ bệnh nhân, chạy rất mau và êm ái. Động lực chạy máy tự nhiên là do năng lực công cộng (énergie universelle) ở khắp nơi. Muốn có thêm năng lực để chạy máy thì lấy thêm tại một vòi phân phối. Rất ít khi phải chở chuyên nặng nề. Mặc dầu có nơi dùng máy bay, nhưng người trong xứ khinh bỉ cách đi lại bằng phi cơ vì họ cảm thấy rằng mọi người đều phải biết đi xa bằng thể Vía. Trong trường học có môn dạy về việc sử dụng thể Vía.

Khí hậu ở xứ nầy rất tốt vì không có mùa đông. Bông hoa đều được trồng ở khắp nơi.

Thời kỳ nầy, dân chúng khắp hoàn cầu đều tiến bộ vô cùng. Âu-Châu trở thành một Liên bang có chánh quyền trung-ương do Đại diện các xứ xử lý.

Vua các nước thay phiên để làm Chủ-Tịch. Các sự thay đổi nầy do Ngài Jules César thực hành trong vòng cuối thế kỷ 20, khi Ngài đầu thai lại,- phù hợp với sự Giáng sanh của Đức Chưởng-Giáo của giống dân chánh thứ Sáu. Đức César khuyến dụ hết thảy các nước bãi bỏ chiến tranh và dùng tiền bạc đã dự trù cho quân bị, để cải-thiện xã hội, xóa bỏ các chòi tranh bẩn thỉu, chỉnh trang tất cả thành thị. Chung quanh Ngài có một nhóm người đầy đủ tài năng để cộng tác như: Nã-Phá-Luân, Scipion l’Africain, Akbar, và nhiều vị khác đầu thai lại.

Trước khi mở cuộc hội-nghị Liên bang đầu tiên, Đức César thiết lập một ngôi đền tròn, có rất nhiều cửa để tất cả các thủ lãnh có thể vào một lượt, tránh việc vị nầy có quyền đi trước vị kia.

Công việc nầy mở một kỷ nguyên mới, được đánh dấu do sự Giáng-Lâm và sự truyền-giáo của Đức CHƯỞNG-GIÁO. Khắp hoàn cầu chỉ có một Tôn-giáo duy nhứt. Tất cả đều được cải thiện mọi mặt. Chỉ còn một số ít quân-nhân lo việc cảnh sát. Không còn sự nghèo đói nữa. Chòi tranh, nhà lá được thay thế bằng hoa viên và vườn tược. Anh ngữ được sửa đổi để dùng khắp hoàn cầu, viết theo tốc ký. Sách in bằng giấy xanh lá cây lợt, mực thì màu xanh dương sậm, vì các màu nầy ít làm mệt mắt hơn chữ đen giấy trắng.

Đời sống văn minh thấm nhuần khắp hoàn cầu, không nơi nào còn dã man nữa. Không nước nào sợ bị xâm lấn, không ai nghi ngờ lẫn nhau, mà đối xử với tình Huynh-Đệ.

Tôn giáo mới được truyền bá sâu rộng và có ảnh hưởng mạnh mẽ, giáo lý hoàn toàn khoa học, nên không có sự chống đối nữa. Cơ quan từ-thiện trở thành vô dụng vì không còn ai khổ sở. Trung Hoa không thay đổi văn hóa, nhưng bề ngoài có nhiều cái sửa. Xứ Ấn-Độ không còn bị nạn đói. Xứ Tây-Tạng mở rộng cửa cho người ngoại quốc tới lui.


Trong lãnh thổ cộng-đồng cũng còn hạng người thông minh hoạt-bát nhất, linh-hồn phát minh phong phú nhất và những bậc tài năng khác nhau. Nhưng tất cả sẽ vô ích nếu thiếu sự vâng lời lẹ làng và hoàn toàn tin cậy Chơn-Sư đang sắp đặt mọi việc theo chương trình và chăm sóc cẩn thận. Người trong khu vực cộng đồng, sau khi bỏ xác thì đầu thai lại liền, không ngừng nghỉ và cố gắng sửa đổi xác thân cho đúng theo kiểu mẫu của Đức Bàn-Cổ đã định. Đó là một công tác khó khăn và cực nhọc, nhưng rất khẩn thiết để đào tạo một mẫu người mới cho giống dân chánh. Ai cũng có thể làm được. Những điều kể trên là bước đầu của giống dân chánh thứ Sáu mà thôi. Chúng ta chưa biết được còn bao lâu nữa Mỹ Châu sẽ bị phân chia từng mảnh bởi động đất và hỏa sơn phun lửa, rồi giữa Thái-Bình-Dương nổi lên một lục địa mới, là nơi cư trú của giống dân thứ Sáu, gần đúng ngay chỗ của Châu Lémurie khi xưa.

Giống dân chánh thứ Sáu cũng sẽ có 7 nhánh phụ, và nhánh thứ Bảy của giống dân nầy sẽ được tuyển chọn để thành lập giống dân chánh thứ Bảy. Đó là công vụ của Đức Bàn-Cổ của giống dân chánh thứ Bảy, và giống dân nầy cũng sẽ lần lượt có 7 nhánh. Chưa có ai hiểu được chút nào về công tác nầy. Giống dân chánh thứ Bảy chuyên lo mở SAT hay là đời sống tinh-khiết, một trạng thái của THƯỢNG-ĐẾ, cũng có thể hiểu là đồng nghĩa như CHA, Đấng SÁNG-TẠO và PHÁ-HỦY.

Khi nhánh thứ Bảy của giống dân chánh thứ Bảy đã làm xong phận sự, Linh-hồn 7 loài trên Địa cầu sẽ chuyển sang bầu Thủy-Tinh (Mercure), chỉ còn những người thi rớt ở lại, sống theo Nội-cảnh tuần-hoàn (Ronde intérieure). Đời sống ở bầu Thủy-Tinh ít thiên về vật chất. Trình độ ý-thức mở rộng hơn, vì, dầu nhơn loại tầm thường cũng có Minh-Nhãn (Vision éthérique).

Rồi từ bầu Thủy-Tinh, Hồn các loài sẽ sang qua bầu F, rồi bầu G. Chừng xong rồi sẽ bắt đầu Cuộc tuần-hoàn thứ Năm từ bầu A. Kế tiếp là Cuộc tuần-hoàn thứ Sáu, rồi đến Cuộc tuần-hoàn thứ Bảy.

Mãn Cuộc tuần-hoàn thứ Bảy, dãy Địa-cầu nầy sẽ lần lần tan rã, một phần năm nhơn loại sẽ được giải thoát, tức là đắc quả CHƠN-TIÊN, còn bao nhiêu phải chờ dãy Địa-cầu thứ Năm thành lập xong sẽ qua đó học tập nữa cho đến khi giải thoát.



PHỤ LỤC



CHÚNG TA CÓ THỂ ĐẦU THAI VÀO GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ SÁU?



Khi đọc xong đời sống của nhánh dân phụ thứ Sáu của giống dân chánh thứ Năm Aryen, và giống dân chánh thứ Sáu, chắc chắn quí vị cũng như chúng tôi, không ai là không muốn được đầu thai vào các dân tộc nầy, vì nó tốt đẹp quá, sung sướng quá !!!

Nhưng có lẽ quí vị lại thở dài và than rằng: 700 năm nữa, còn lâu lắm. Vả lại hiện giờ mình sanh trong dân tộc da vàng, tức là nhánh thứ 7 của giống dân Ắt-lăn thì biết chừng nào mình mới được sanh vào các giống dân cao hơn (thứ 5 và thứ 6) ?

Xin các bạn đừng lo, vì Huyền-Bí-Học cho biết, chúng ta có thể đi lẹ hơn lệ thường, nếu chúng ta cố gắng tạo cho mình có đủ một số điều kiện cần thiết, thì được sanh vào các giống dân mới đã nói trên. Đó là những HẠNH KIỂM TỐT và HY SANH.

Chúng ta chẳng khác nào các Sinh viên tự do đang học lớp 9 Trung học. Nếu muốn vượt bực để thi Tú-tài I và vào học lớp 12, chúng ta có thể không cần vào trường, học đủ 2 năm của lớp 10 và 11, mà chúng ta theo thầy dạy luyện thi và chuyên tâm học tập một thời gian ngắn thì đầy đủ chương trình của 2 lớp ấy để ta thi Tú-tài I và vào học lớp 12.

700 năm nữa, tuy thấy lâu, nhưng người tu hành chơn chánh, có tâm đạo, sau khi bỏ xác thì được hưởng cảnh thanh nhàn tại cõi Hạ-Thiên cả một, hai ngàn năm, khi đầu thai trở lại Trần, kiếp sau, thì thấy đã trể lắm rồi.

Vậy, nếu muốn kiếp sau được nhập vào giống dân thứ Sáu thì bây giờ chúng ta phải bền chí, chuyên cần nghiên cứu và thực hành những bài học của các nhánh dân Aryen để tạo cho mình có đủ điều kiện, xứng đáng vào giống dân mới, nhứt là tình HUYNH-ĐỆ ĐẠI-ĐỒNG.

Những điều kiện đó đã được trình bày rành rẽ trong quyển DƯỚI CHƠN THẦY, cũng như quyển CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ hay quyển CÁC VỊ PHÒ TRỢ VÔ HÌNH.

Đó là những HẠNH KIỂM TỐT mà vị Đệ-tử phải tập luyện cho được. Nếu chúng ta bền chí, học tập nhiệt thành, trau giồi các đức tánh tốt thì chắc chắn sẽ được mãn nguyện.

VẠN VẬT THÁI BÌNH

Share:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu trữ Blog

Translate