The Social Dilemma: Công nghệ đang thao túng và giết chết chúng ta như thế nào?

Phim tài liệu 'The Social Dilemma' là tiếng nói của chính những kẻ từng thao túng chúng ta đến từ Facebook, Google, Pinterest...


Các dịch vụ công nghệ này đang giết người và khiến mọi người muốn tự tử”

Tim Kendall, cựu chủ tịch Pinterest

The Social Dilemma (Sự tiến thoái lưỡng nan của xã hội) của đạo diễn Jeff Orlowski là phim tài liệu chiếu mạng đang được chú ý vì chủ đề thời sự: Mạng xã hội thao túng chúng ta như thế nào?

Khi xem phim, có lẽ khán giả nào cũng sẽ có trải nghiệm trớ trêu như người viết: chúng ta xem một bộ phim cảnh báo chính mình về sự nguy hiểm của mạng xã hội, nhưng vừa xem vừa không thể ngừng kiểm tra Facebook, Messenger, Gmail và để mạng xã hội không ngừng thao túng chúng ta.

Lời cảnh báo từ chính những kẻ từng thao túng

Điểm đặc biệt của bộ phim này là nó đưa ra tiếng nói cảnh báo từ chính những người trong cuộc, những người từng thao túng chúng ta.

Họ là cựu giám đốc điều hành, chủ tịch, nhà đầu tư, quản lý, nhà phát triển sản phẩm, nhà đạo đức thiết kế ở các công ty công nghệ hàng đầu thung lũng Silicon: Facebook, Google, Twitter, Instagram, Pinterest, Snapchat...

Một trong số họ là Tristan Harris - chủ tịch kiêm đồng sáng lập Trung tâm Công nghệ nhân đạo và từng là nhà đạo đức thiết kế ở Google.

Harris từng lên tiếng về vấn đề đạo đức ở Google, kêu gọi giải pháp để giải thoát con người khỏi sự thao túng của công nghệ. Bài thuyết trình của anh gây tiếng vang khắp công ty, đến tai nhà đồng sáng lập quyền lực Larry Page.

"Và sau đó, chẳng có gì xảy ra cả" - Harris nói trong bộ phim. Đề xuất của anh rơi vào thinh không. Google vẫn tiếp tục thao túng người dùng.



Bộ phim đưa ra nhiều phát ngôn dõng dạc về mối quan hệ giữa công nghệ và con người hiện nay. "Chỉ có hai ngành công nghiệp gọi khách hàng là "người dùng": buôn ma túy bất hợp pháp và phần mềm" - Edward Tufte, nhà thống kê tiên phong về trực quan hóa dữ liệu.

Chỉ có hai ngành công nghiệp gọi khách hàng là "người dùng": buôn ma túy bất hợp pháp và phần mềm”

Edward Tufte, nhà thống kê tiên phong về trực quan hóa dữ liệu

Còn Tim Kendall, cựu chủ tịch Pinterest và cựu giám đốc kiếm tiền Facebook - một trong những nhà quản lý cấp cao nhất xuất hiện trong bộ phim, nhận định: "Các dịch vụ công nghệ này đang giết người và khiến mọi người muốn tự tử".

"Giết người" là một từ nặng, nhưng không thiếu căn cứ. Bộ phim đưa ra những ví dụ thời sự như các phát ngôn sai lệch vô tội vạ về COVID-19 khiến nhiều người tin theo và nhiễm bệnh; những tin giả gây kích động trên mạng xã hội và khiến người ta phản ứng bằng bạo lực, bạo động ngoài đời thực, bê bối xâm nhập dữ liệu liên quan đến Cambridge Analytica và Facebook năm 2018...

The Social Dilemma: Công nghệ đang thao túng và giết chết chúng ta như thế nào? - Ảnh 6.

Phim dựng lên cảnh những kẻ đứng sau mạng xã hội (do diễn viên đóng) thao túng tâm trí một thiếu niên Mỹ để kiếm tiền từ sự bất an của cậu ta - Ảnh: EXPOSURE LAB

Tiến sĩ Jonathan Haid của NYU, nhà nghiên cứu tâm lý xã hội, cho biết có sự gia tăng mạnh mẽ về trầm cảm và lo âu trong thanh thiếu niên Mỹ bắt đầu từ 2011. "Tỉ lệ tự tử còn kinh khủng hơn. Trong nhóm nữ giới từ 15 đến 19 tuổi, tỉ lệ tự tử tăng 70 trong thập niên 2010" - ông nói.

Và Tristan Harris hình dung: "Tôi không quen bậc cha mẹ nào lại nói: "Tôi muốn con tôi lớn lên bị các nhà thiết kế công nghệ điều khiển, thao túng sự chú ý, khiến chúng không làm bài tập về nhà, khiến chúng so sánh mình với tiêu chuẩn cái đẹp phi thực tế". Chả ai muốn thế cả".

Từng có một quan niệm phổ biến rằng con người rồi sẽ thích nghi với công nghệ mới, chúng ta sẽ học được cách sống chung với các thiết bị này như cách đã sống chung với những tiến bộ công nghệ khác. Nhưng The Social Dilemma nhắc họ một điều: thứ chúng ta đang đối mặt là hoàn toàn mới, hoàn toàn khác biệt, chưa từng có trong lịch sử.

"Trí tuệ nhân tạo đã cai trị thế giới rồi"

Theo Randima Fernando - một chuyên gia phát triển sản phẩm, năng lực xử lý của máy tính đã tăng khoảng 1.000 tỉ lần từ thập niên 1960 đến nay.

"Điều nguy hiểm nhất trong tất cả là nó được công nghệ thúc đẩy, đang tiến bộ theo cấp số nhân. Không một ngành nào khác có tỉ lệ tiến bộ gần đạt mức đó" - ông nói.

Đáng chú ý là bộ não con người hầu như không hề tiến hóa trong khoảng thời gian đó.

The Social Dilemma: Công nghệ đang thao túng và giết chết chúng ta như thế nào? - Ảnh 7.

Những cô bé tuổi teen là đối tượng dễ thao túng của mạng xã hội - Ảnh: EXPOSURE LAB

"Khi nói đến trí tuệ nhân tạo, ta nghĩ nó sẽ hủy hoại thế giới. Nhưng họ không hiểu một điều: trí tuệ nhân tạo đã cai trị thế giới rồi" - Tristan Harris nhận định.

Điều bộ phim khẳng định chắc nịch là không ai đủ thông minh để thoát khỏi sự cai trị đó, vì cựu chủ tịch Pinterest cũng nghiện mạng xã hội, đến nhà đạo đức thiết kế Facebook cũng không thể rời mắt khỏi những thứ thao túng mình.

Dù trình bày một vấn đề rất cũ, điều The Social Dilemma gây ấn tượng bằng cảm giác đáng sợ mà bộ phim tạo ra. Đúng, lâu nay chúng ta biết mình bị thao túng và cố lờ đi để tận hưởng tiện ích mạng xã hội mang lại. Còn bộ phim lại phơi bày hết nỗi sợ và nguy cơ khiến chúng ta không thể ngoảnh mặt, bịt tai.

The Social Dilemma được ví là phiên bản phim tài liệu của The Social Network, bộ phim điện ảnh xuất sắc năm 2010 về cách Mark Zuckerberg tạo ra Facebook.

Mặc dù vậy, với sự phát triển như cuồng phong của công nghệ, The Social Dilemma - bất chấp nhiều thông tin từ người trong cuộc và nỗ lực trực quan hóa - vẫn gây cảm giác cũ, lạc hậu.

Bộ phim gặp vấn đề với thứ nó đang cố nhìn nhận: với mạng xã hội, dường như không một diễn ngôn nào là nguyên gốc nữa. Những lời vừa nói ra cũng là những lời đã được nói ra hàng tỉ lần trước đó.

Xem xong phim, chúng ta có thể đe dọa xóa Facebook, hoặc thực sự xóa nó, nhưng Facebook có đủ quyền lực để bắt chúng ta phải quay trở lại, lần thứ n.

Chúng ta hãy cùng xem phim (bạn có thể click xem toàn màn hình ở góc phải dưới):

Share:

Truyền thông và quan điểm lầm lạc về hạnh phúc của chủ nghĩa tiêu dùng

 Tại sao ngoài kia nhiều con người suốt đời loay hoay tìm kiếm hạnh phúc, họ đặt ra rất nhiều mục tiêu và kể cả khi đã ĐẠT ĐƯỢC MỤC TIÊU ấy, họ vẫn không cảm thấy hạnh phúc. Tại sao vậy?

Truyền thông và quan điểm lầm lạc về hạnh phúc của chủ nghĩa tiêu dùng

Một người có trí tuệ nào đó đã từng nói: “Hạnh phúc là cả một cuộc hành trình, không phải là một đích đến (Happiness is a journey, not a destination)“. Liệu điều này có đúng không?

Tôi mong các bạn, nhất là những người trẻ, nhìn ra được sự thật này.

Trước hết, xin đừng bắt tôi phải đưa ra định nghĩa đúng đắn về HẠNH PHÚC. Trước tôi và bạn, đã có vô số bậc toàn tri trong lịch sử đã cố gắng đưa ra khái niệm về điều này, và mỗi người thì nhìn nhận theo một cách khác nhau. Người ta không thể định nghĩa chính xác được nó, nhưng người ta CẢM NHẬN được hạnh phúc khi mà nó tới, và người ta chia sẻ với nhau về điều đó.

“Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Life, Liberty and the pursuit of happiness).

Nghe có quen không? Điều này không chỉ nằm trong bản tuyên ngôn độc lập của nước CHXHCN Việt Nam đâu nhé. Ngày nay điều này được coi là những quyền cơ bản và đương nhiên của loài người, nó được ghi rõ trong tuyên ngôn độc lập của rất nhiều quốc gia, nhất là ở phương Tây – nơi mô hình xã hội của họ được coi là những “anh cả” đang dẫn dắt thế giới.

“Mưu cầu hạnh phúc” – nó là một mục tiêu mà tất cả chúng ta đều đang nhắm tới. Nhưng mưu cầu hạnh phúc bằng cách nào? Thì không có một văn bản pháp luật nào nhắc tới.

Người ta chỉ có thể quy ước, thống nhất ngầm với nhau như thế này:

the pursuit of happiness – Mưu cầu hạnh phúc, là bằng cách nào đó người ta MUA được, ĐẠT được, GIÀNH được những vật phẩm, những dịch vụ, những giá trị tinh thần, và cả những CON NGƯỜI cụ thể.

Đây chính là thứ mà những xã hội mang màu sắc chủ nghĩa tư bản (capitalism) hay tân tự do (neoliberalism) muốn con người ta hướng đến. Bỏ qua đống lý thuyết chính trị vớ vẩn đi, tôi không có ý muốn đi sâu vào nó. Đơn giản là như thế này. Qua truyền thông báo đài, phim ảnh, người ta NGẦM QUY ƯỚC với nhau rằng, anh chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi:

MUA ĐƯỢC những vật chất hữu hình nhất định: xe cộ, nhà cửa, quần áo, đồ trang sức…

ĐẠT ĐƯỢC những giá trị về tinh thần: ăn phải ngon miệng, đi du lịch ở những nơi đẹp và sang trọng, làm gì cũng phải nhắm đến mục đích hưởng thụ, phải được “phê”, phải “sướng”. Thậm chí là những món mang lại “khoái cảm” như cần sa đang được dần hợp pháp hóa.

GIÀNH ĐƯỢC cho mình những chủ thể là CON NGƯỜI như anh mong muốn: Những cô bồ đẹp, nóng bỏng như người mẫu hay là mối quan hệ bạn bè với những người nổi tiếng, có vai vế trong xã hội.

Theo cách hiểu, cách nhận định như vậy, thì những người “hạnh phúc” nhất trong xã hội là những người có tiền. Thật nhiều tiền. Hạnh phúc của họ được đo đếm bằng chiếc Ferrari, căn biệt thự bên bờ biển, chiếc du thuyền, những cô nàng đẹp lộng lẫy xuất hiện trong bữa tiệc toàn người nổi tiếng, là Las Vegas, là Hawaii…

Không khuyến khích, thôi thúc anh làm những điều trên thì người ta làm sao bán được hàng cho anh? Làm sao để bắt anh có thể lao động như một con trâu phục vụ cho doanh nghiệp của họ? Những chủ tập đoàn, những đại tài phiệt, giới đầu tư kinh doanh họ đã tính toán rất kĩ khi đổ tiền vào ngành truyền thông, giáo dục là bởi lý do này. Để ý mà xem, những thứ mà truyền thông hằng ngày trưng cho chúng ta thấy, về những con người với vẻ mặt tươi tắn, nụ cười rạng rỡ bên những thứ họ MUA, ĐẠT, GIÀNH được tôi kể trên kia. Những hình ảnh trên in sâu vào đầu óc con người chúng ta. Chúng ta THẤY và TIN nó, làm theo nó, cố gắng để bản thân đạt được như “mẫu hình” ấy. Hai chữ “hạnh phúc” trở thành một lý tưởng, được hiểu theo nghĩa như vậy.

Loài người chúng ta, không khác những con động vật linh trưởng trong sở thú đang bắt chước hành động đám khách du lịch là mấy.

Theo TAKE THE 1ST RED PILL

Share:

Chống phương Bắc đồng hóa – cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc Việt

 Có một sự thật đau đớn và kiêu hãnh trong lịch sử thế giới rằng: Bất cứ mọi quốc gia nhỏ yếu nào khi số phận địa lý mặc định phải ở bên cạnh nước lớn thì đều phải gồng mình chống đồng hóa dân tộc.

Có những dân tộc biến mất tăm mất tích vào một dân tộc lớn; có dân tộc đi xâm lăng, đi đồng hóa thì “gậy ông đập lưng ông” bị đồng hóa lại mà bi kịch người Mãn (dù triều đình nhà Thanh cai trị Trung Nguyên suốt 200 năm) là một ví dụ. Chống đồng hóa thực ra là chống đồng hóa văn hóa dân tộc. Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nói rằng: “Bị đô hộ hàng mười thế kỷ bởi một nước có văn hóa cao hơn, số dân đông hơn gấp bội mà sau mấy ngàn năm – Ta vẫn là ta – hẳn không phải vì mũi tên nhọn hơn, bắp thịt cứng hơn mà chủ yếu là nhờ văn hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của riêng mình, chứ văn hóa lấy sức đọ sức, lấy số đọ số thì dân Việt Nam, nước Việt Nam chỉ còn là đối tượng khảo cổ học”.

Thủ đoạn đồng hóa của phương Bắc.

Tư tưởng Hán hóa của các thế lực phong kiến phương Bắc chinh phạt phương Nam để sát nhập lãnh thổ, biến nước ta thành quận huyện của người Hán. Đầu tiên thể hiện ở việc di dân tự do một cách ồ ạt cả dân thường và quan lại, để người Hán sống quần cư quần canh, lẫn lộn với các dân tộc Âu Lạc, nhằm phá vỡ cơ cấu dân cư truyền thống sản xuất lúa nước nhiệt đới. Trong cuộc di cư cưỡng bức từ phương Bắc này, ngoài các công dân trung bình, hoặc tinh hoa, còn cả tội phạm, trộm cắp, tù tội, kẻ bị lưu đày; cả những người bất mãn, đầu bò đầu bướu, thất sủng với quan lại phải bỏ xứ hành phương Nam, mà nước Âu Lạc chúng ta là cái túi phải hứng chịu. Áp đặt chế độ chính trị và một hệ thống quan lại người Hán cai trị..vv. Tình trạng đau đớn này bắt đầu từ năm 179 TCN, khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc, chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.

Sách Hậu Hán thư chép rằng: “Xưa thời Bình đế, Tích Quang người Hán Trung làm Thái thú Giao Chỉ, dạy dỗ dân Di (người Việt), dần dần hóa theo lễ nghĩa, danh tiếng ngang với Nhâm Diên”. Thực chất, Tích Quang là Thái thú Giao Chỉ, và Nhâm Diên là Thái thú Cửu Chân đem cách ăn mặc, cưới xin, ma chay… lễ nghĩa của người Hán áp đặt vào đời sống người Việt.

Có một câu chuyện lưu truyền trong huyền sử mấy ngàn năm cho đến tận ngày nay rằng: Năm 43, Mã Viện tiêu diệt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã phát lệnh thu hết trống đồng, nấu chảy thành dung dịch lỏng rồi đúc ngựa kiểu, đúc thành đồng trụ và khắc chữ vào: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gẫy, Giao chỉ mất)… Tích cột đồng Mã Viện như một ghi nhớ không thể nào quên về sự hủy diệt văn hóa Việt, và chính sách đồng hóa của phong kiến phương Bắc.

Tình trạng này, sau nhà Hán là bộ máy cai trị tiếp theo là nhà Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường… thực hiện càng nghiệt ngã hơn kéo dài suốt ngàn năm Bắc thuộc và được áp dụng thêm 20 năm thời Minh thuộc (1407 – 1427). Đại Việt Sử Ký toàn thư chép: “Nhà Minh cấm con trai con gái không được cắt tóc; phụ nữ mặc áo ngắn, quần dài, đồng hóa theo phong tục phương Bắc”

Nhiều các công trình kiến trúc như đình, chùa, miếu… và các tác phẩm nghệ thuật từ thời Lý, Trần đều bị tàn phá, đốt bỏ. Các nhà Nho, thợ thủ công lành nghề, thầy thuốc giỏi… cũng bị bắt đưa về Yên Kinh phục vụ cho triều đình nhà Minh.

Từ thời Tây Hán, Nho giáo đã bắt đầu du nhập vào nước ta. Đến thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Chỉ thì sự học chữ Hán và Nho học mới trở thành quy củ và thịnh hành. Bọn phong kiến phương Bắc sử dụng Nho giáo như một công cụ thống trị.

Chúng ta hãy hình dung: khi người Hán vượt sông Dương Tử tiến xuống phía Nam chinh phạt nền văn minh lúa nước của người Bách Việt thì hầu hết cộng đồng bị Hán hóa. Nước ta bi kịch chồng bi kịch đồng hóa bởi người Hán và cả những người Bách Việt đã bị Hán hóa nữa. Vậy mà, thật lạ lùng và diệu kì là dân tộc ta chỉ là một bộ phận nhỏ của cộng đồng Bách Việt mà “ta vẫn cứ là ta”, không bị đồng hóa. Vì sao?

Dân tộc Việt kiên cường, bền bỉ chống đồng hóa

Công cuộc chống đồng hóa dân tộc Việt Nam thật vô cùng bền bỉ, dai dẳng trong suốt quá trình vừa duy trì, gìn giữ, phát triển văn hóa bản địa, vừa tiếp thu có chọn lọc để làm phong phú văn hóa dân tộc. Người Việt chúng ta không có nhu cầu đồng hóa, không chịu bị đồng hóa.

Chống đồng hóa trước hết là giữ gìn tiếng nói Việt – tiếng mẹ đẻ. Suốt ngàn năm Bắc thuộc dài đằng đẵng vẫn không thể biến cả dân tộc ta “ăn theo nói leo” thành người Hán, nói tiếng Hán. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã khẳng định rằng: Tiếng tiếng mẹ đẻ – tiếng Việt hơn 1000 năm trước đây dù có biến đổi theo thời đại nhưng so với ngày nay cơ bản là không khác mấy. Thực sự, thời nước ta sống trong ngàn năm Bắc thuộc tăm tối chỉ có một bộ phận nhỏ trí thức và quan lại ở kinh kỳ, phố thị mới học nói tiếng Hán, viết chữ Hán. Còn ở làng xã thì lại quá xa xôi, mờ mịt. Làng vẫn tồn tại với tiếng Việt.

Làng xã Việt Nam là một cơ cấu kinh tế – xã hội hạ tầng thật kì diệu vừa có nhiều khiếm khuyết nhưng cũng thừa ưu việt. Nó đóng cửa trong tù túng, cố thủ chối từ hội nhập nhưng trong thời đại lịch sử đặc biệt suốt ngàn năm Bắc thuộc lại là sức mạnh đề kháng cường tráng chống lại sự đồng hóa và đã chống đồng hóa thành công. Cây tre hiền hòa gắn liền với người Việt. Nếu bình chọn “quốc cây”, tôi xin đề cử cây tre. Người ta thường lấy lũy tre bao quanh làng xã để nói đến tính cố kết, quây quần của cộng đồng. Làng nọ cách làng kia chỉ một cánh đồng, hay một con ngòi nhỏ cũng có thể… khác nhau vài ba nếp văn hóa dân gian; mỗi làng thờ một ông Thành hoàng làng, mỗi làng một hội làng khác nhau… Thậm chí trong một làng, mỗi dòng họ cũng tự thân cố kết và giữ gìn bản sắc, nếp nhà nếp dòng họ để không lẫn với dòng họ khác, nhà khác. Lịch sử đã chứng minh: Nước ta đã nhiều phen mất nước nhưng chưa bao giờ mất làng. Làng là đơn vị hành chính – kinh tế – xã hội – nơi cố thủ cuối cùng trước nạn đồng hóa của phương Bắc. Ấy là chưa kể cách đây cả ngàn năm địa lý nước ta hiểm trở, xa xôi, rừng rú hoang dã đầy lam sơn chướng khí, người Hoa Hạ xứ lạnh không chịu nổi khí hậu nhiệt đới ẩm ướt gió mùa. Quan lại người Hán có thể “với” xuống châu, huyện, chứ chưa bao giờ cắm xuống tận làng. Làng vẫn do người Việt điều hành và “lũy tre làng” cứ như một bức tường vòng tròn vô hình ngăn chặn thế giới văn hóa Hán xâm nhập.

Ngay cả tầng lớp trí thức ở kinh kỳ, phố thị khi bị cưỡng bức tiếp nhận Nho học khuôn thước quy củ thì cũng bị văn hóa trồng lúa nước với nguyên lý MẸ làm mềm đi đến mức khúc xạ Nho giáo. Chẳng hạn, Nho giáo áp đặt xã hội, dòng họ, gia đình theo một hệ thống tôn ti trật tự với nguyên tắc “tam cương”, ngũ thường”. Nước có quốc pháp, nhà có gia quy thì cái trật tự nghiêm ngặt này lại hoà trộn với lối ứng xử Mẹ – Nước mềm mại: “Con hơn cha là nhà có phúc”, “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Nho giáo áp đặt “tam tòng tứ đức”, “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” trọng nam khinh nữ… thì người Việt lại phải kháng bằng “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, “Của chồng công vợ”. Thực tế trong lịch sử người Việt đã thờ Mẹ – Âu Cơ, đề cao, khâm phục Bà Trưng Bà Triệu, nữ tướng Lê Chân…

Cái căn nguyên phản kháng, chối từ Nho học trọng nam khinh nữ có từ gốc, từ nền tảng văn hóa dân tộc Việt. Trước khi Nho học du nhập sang Giao Chỉ thì người Việt cổ đã gọi mẹ là Cái: sông Cái, ngón chân Cái, đường Cái, cột Cái… “Con dại Cái mang”. Mẹ nguyên bản của người Việt gắn với những gì to lớn, kì vĩ, cơ bản, trụ cột chứ không phải người cha… Vua Mai Hắc Đế lấy họ mẹ chứ không phải học cha, sau này nhiều quan lại nhà Lý cũng mang họ mẹ. Chính nguyên lý Mẹ trong văn hóa người Việt là đã chứa đựng nội tại tiềm tàng sức kháng cự kiên cường chống đồng hóa.

Sau khi Tần Thủy Hoàng chinh phạt vùng Lĩnh Nam của cộng đồng Bách Việt thì sai Nhâm Ngao và Triệu Đà cai trị. Và Triệu Đà đã thực hiện chiến lược “Hoà tập Bách Việt”, xin Tần Thuỷ Hoàng di dân 50 vạn người Hoa Hạ từ Trung Nguyên xuống Lĩnh Nam để thực hiện cuộc trộn lẫn người Bách Việt và người Hoa Hạ, gọi là “Hoa Việt dung hợp”.

Nhưng rồi, chính Triệu Đà và những người Hán di cư đi đồng hóa thì lại bị đồng hóa lại. Ly khai nhà Tần, chống lại nhà Tần, đến khi Lục Giả theo lệnh Hán Cao Tổ xuôi Nam phủ dụ thì Triệu Đà đã biến thành người Việt lúc nào không biết: Triệu Đà ở nhà sàn, ăn trầu cau bôi vôi, đôi khi còn bôi răng đen và vẽ hình săm trên mình để hòa nhập (hay là mị dân, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của người Việt?) Trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép về “vua Triệu Đà”: “Khi sứ đến, vua ngồi xổm mà tiếp Lục Giả”… Vua ra dáng sợ hãi, đứng dậy nói: “Tôi ở đất này lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa”. Sức mạnh văn hóa tiềm tàng của người Việt như một dòng nước ngầm âm thầm chảy trong lòng đất đã làm cho văn hóa ngoại lai dần dần biến đổi ra thuần Việt đến mức không nhận ra.

Ngày nay, các nhà khảo cổ đã cố công đi tìm và chứng minh “Cột đồng Mã Viện” ở đâu. Lĩnh Nam đại đáp của Chu Khứ Phi đời Tống và Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt Sử Ký toàn thư đều chép: “Cột đồng tương truyền dựng ở trên động Cổ Lâu, thuộc châu Khâm”. Khâm Châu thuộc Quảng Tây – Trung Quốc. Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn chép: Cột đồng Mã Viện dựng ở Lâm Ấp. Học giả Đào Duy Anh tin câu chuyện Mã Viện dựng cột đồng là có thật và cụ phán đoán nó được dựng ở ở núi Thành (núi Đồng Trụ) ở Nghệ An… Tất cả đều là giả thiết, nhưng có một chi tiết trong huyền thoại là: Biết cột đồng có ghi dòng chữ: “Cột đồng gẫy, Giao Chỉ diệt” người dân Việt bị ám ảnh, có thể sợ nên mỗi ai đi qua đều bỏ một hòn đá vào bên cột đồng. Lâu ngày, cột đồng bị đá lấp không còn dấu vết. Tôi tin không phải dân Việt ám ảnh và sợ hãi bị diệt, mà chính là tinh thần phản kháng dân tộc, kiên quyết chối từ văn hóa vật thể lạ cũng như văn hóa phi vật thể là lời dọa dẫm, uy hiếp của Phục ba tướng quân Mã Viện.

Nói đến việc chống đồng hóa, dân gian vẫn lưu truyền một nhân vật tên là Cao Biền giỏi địa lý và phong thủy vâng lệnh vua Đường sang nước ta vừa cai trị vừa đi trấn yểm long mạch, huyệt thiêng… để phá đất phát tích đế vương. Bỏ qua màu sắc mang tính dị đoan thì chúng ta cũng đọc được tư tưởng, âm mưu, thủ đoạn của tập đoàn phong kiến phương Bắc quyết triệt hạ văn hóa dân tộc ta, và dập tắt ý đồ xưng đế vương chống lại “thiên triều” để dễ bề dồng hóa. Trong truyện cổ tích “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” do Học giả Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, có chi tiết: Cao Biền cưỡi diều ném cái búa bằng gang để yểm bùa ở Núi Rồng-Nghệ An, bay đến Thanh Hóa “thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được” nên Cao bỏ đi. Việc làm hủy diệt hồn khí thiêng sông núi nước Nam của Cao Biền bị nhân dân ta căm ghét và một lần Cao Biền lại bay đi trấn yểm thì bị dân chúng vùng Ninh Bình dùng cung nỏ bắn rơi. Cao Biền bị thương phải về Trung Quốc cứu chữa, còn cái diều rơi xuống một quả núi ở Ninh Bình về sau người ta gọi là núi Cánh Diều. Lịch sử được ghi lại bằng chữ viết và hình ảnh, nhưng lịch sử cũng được ghi bằng huyền thoại dân gian. Bắn rơi cánh diều của Cao Biền như một thông điệp của nhân dân gửi đi toàn cõi về cuộc chiến chống đồng hóa.

Mặc dù suốt ngàn năm đô hộ, phong kiến phương Bắc dùng đủ mọi thủ đoạn để Hán hóa dân tộc ta, nhưng người Việt vẫn kiên cường giữ gìn văn hóa dân tộc. Quan lại Hán và các thương gia người Hán mang nước tương, ngũ vị hương với cách nấu chiên xào của người Hoa Hạ du nhập vào nước ta, nhưng cho đến ngày nay cơ cấu bữa ăn của phần lớn cư dân Việt vẫn là nước mắm, hành tỏi, nghệ, giềng, bữa ăn thì ít thịt mà nhiều cá, rau củ quả, luộc hấp và ăn tươi sống là chính.

Người Việt không chịu được cái tiết tấu nhịp điệu hùng tráng, thậm chí ồn ã của nhã nhạc, kinh kịch, diễn xướng Trung Hoa nên vẫn cứ duy trì nhạc dân gian trữ tình nhẹ nhàng là các điệu hát xoan, hát giặm, chèo, tuồng… Các tục nhuộm răng đen, ăn trầu cau, dùng quan tài hình thuyền, hoặc đục khoét rỗng thân cây để đựng chôn người chết, xăm mình…vẫn được giữ nguyên suốt mấy ngàn năm; chúng chỉ mai một đi theo thời gian cách đây mấy chục năm để phù hợp với thời đại khoa học – kỹ thuật mới.

Thời xưa, dù Nho giáo rất khó thâm nhập vào làng quê, nhưng vẫn có làng cổ có vài ba sĩ tử đi thi trượt về làm thân phận một ông đồ bất đắc chí mở trường dạy học. Đến giờ thì sạch bóng, có lẽ ông đồ trong thơ Vũ Đình Liên sau đó biến mất là hình ảnh cuối cùng của chợ chiều Nho học. Thời đại và dân Việt đã chối từ Nho học đồng hóa vừa nhọc nhằn vừa nhẹ nhõm.

Tất nhiên, trong quá trình chịu bị kịch Hán hóa, người Việt cũng tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn hóa của người Hoa Hạ. Một số lượng lớn từ Hán – Việt trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam là một ví dụ sinh động của việc tiếp thu thành quả văn minh nhân loại. Điều đó cũng chứng tỏ: Người Việt khôn ngoan, chống đồng hóa, không đánh mất mình, giữ bản sắc, nhưng cũng không từ bỏ cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để tự lớn và để “mấy ngàn năm ta vẫn cứ là ta”.

(st)

Share:

Utopia – tác phẩm văn học tiếp tục định hình thế giới sau 500 năm

 500 năm kể từ lần đầu xuất bản, cuốn Utopia của Thomas More đã tạo ảnh hưởng lên mọi thứ, từ tư tưởng của Gandhi tới gã khổng lồ công nghệ ở thung lũng Silicon, và tất nhiên, làm lên nền văn học thế giới suốt nửa thiên niên kỷ qua.

Utopia – cuốn sách tiếp tục định hình thế giới sau 500 năm tồn tại

Thomas More là một nhân vật khác thường, một luật sư người Anh, nhà chính khách, nhà văn và một vị thánh.

Những ý tưởng… rất “Utopia”

Sinh năm 1478, ông là người rất “tiến bộ” vừa bám sâu vào những phong tục cổ xưa. Ông kịch liệt chống lại Cải cách Tin Lành và được Giáo hội Công giáo tôn kính như một vị thánh.

Ngày nay, hơn 480 năm kể từ khi ông bị xử tử, nhân loại biết đến ông rộng rãi nhất qua những “phát minh” bằng ngôn từ, và những ý tưởng do ông khơi mào nay gieo mầm và phát triển trên toàn thế giới. Nó định hình những cuốn sách, những triết lý hay cả các phong trào chính trị, từ Robinson Crusoe của Daniel Defoe tới học thuyết đấu tranh bất bạo động của Mahatma Gandhi hay việc thành lập tiểu bang Pennsylvania, Mỹ.

Xuất bản lần đầu bằng tiếng Latin vào năm 1517, “Utopia” có nghĩa là “không nơi chốn” trong tiếng Hy Lạp, nhưng một số học giả lại cho rằng đó là chơi chữ của “nơi hạnh phúc”. Theo ngôn ngữ ngày nay, Utopia được hiểu là “chốn không tưởng”.

Trong cuốn sách, More đã tưởng tượng nên một cộng đồng với chế độ lý tưởng. Phải nói rõ rằng, đây không phải tác phẩm văn chương đầu tiên vẽ nên những chính sách trong mơ: mơ ước về một cuộc sống tốt hơn vốn là bản năng của con người. Năm 380 TCN, Platon đã viết Cộng hòa, về một xã hội theo chế độ quân bình, cai trị bởi một nhà vua triết học.

Rất nhiều các tác phẩm khác ở thời trung cổ cũng mang những tưởng tượng về một xã hội lý tưởng. Nhà văn lớn Christine de Pizan, người làm việc cho triều đình Pháp cũng có cuốn sách đặc sắc mang tên The Book Of The City Of Ladies, xuất bản năm 1405. Đó như một tuyên ngôn về nữ quyền, nơi những phụ nữ dựng bức tường gạch bao quanh thành phố không tưởng – nơi trú ẩn thoát khỏi chế độ gia trưởng. Tư tưởng của cuốn sách dần trở thành hiện thực sau đó hơn 500 năm.

Dù nằm trong thời đại của những cuốn sách tưởng tượng, Thomas More, với cuốn Utopia, vẫn là thiên tài khi chỉ từ trăm trang sách mỏng, ông đã tạo nên một ý tưởng triết học ứng dụng và bước đầu đưa những ý tưởng không tưởng thành sự thật.

Địa đàng trần gian là có thật

Trong Utopia, Thomas More đã xây dựng một nhân vật tưởng tượng: nhà du hành Raphael Hythlodaeus, người vừa trở về từ đất nước xa xôi Utopia. Người này đã gặp More và kể lại chuyến phiêu lưu của mình.

Theo lời Hythlodaeus, xứ Utopia là nơi mà mọi người đều làm việc chăm chỉ (dù chỉ phải làm 6 giờ/ngày như Thụy Điển hiện nay) và có lối sống thiên nhiên, bình dị. Nô lệ ở đây lại chính là những kẻ phải mang đầy vàng bạc trên người, như một hình phạt về thói phù phiếm. Ngoài ra, những cải tiến đáng kể ở Utopia có thể kể đến là phúc lợi nhà nước với bệnh viện miễn phí, cho phép trợ tử, linh mục được kết hôn, chấp thuận ly hôn nhưng ngoại tình sẽ bị trừng phạt nặng nề…

Tất cả những điều trên, người đọc hiện nay có thể thấy bình thường hoặc đôi chút bất thường. Tuy nhiên, đặt vào bối cảnh xã hội Anh cách đây 500 năm, đủ hiểu tầm nhìn xa trông rộng của Thomas More lớn tới cỡ nào.

Nhìn lại gần nửa thiên niên kỷ trước, dễ dàng nhận ra những điều “không tưởng” của Thomas More dần trở thành “sự thật”.

Ông chính là người mở đường cho làn sóng văn học không tưởng vào thế kỷ 17. Chính trong làn sóng này, nhà bác học người Anh Francis Bacon, trong cuốn sách mang tên New Atlantis xuất bản năm 1627, viết rằng nhà nước nên thành lập một trường đại học khoa học, nơi phát minh ra máy móc hiện đại phục vụ cả thế giới; đồng thời đề cập tới những công nghệ “không tưởng” như máy bay và tàu ngầm.

Cũng trong thế kỷ này, tại Anh nổ ra cách mạng Thanh giáo, chủ trương đưa con người ra khỏi những ràng buộc, giống như trong Utopia. Năm 1629, nông dân Gerrard Winslanley cũng hưởng ứng tư tưởng của Thomas More, nổi dậy đòi tạo khu đất chung để trồng trọt.

Các tác phẩm văn học kinh điển đầu thế kỷ 18 như Robinson Crusoe của Dainel Defoe hay Gulliver du ký của Jonathan Swift cũng là những cây đại thụ mọc lên từ hạt giống của More. Tuy nhiên, phần còn lại của thế kỷ này, các tác phẩm và thí nghiệm không tưởng giảm đi đáng kể. Thay vào đó là những cuộc cách mạng tưởng như “không tưởng”.

Từ đây, những ý tưởng trong Utopia không còn nặng về mặt câu chữ nữa, mà dần đi vào đời sống thực tiễn, lan rộng khắp thế giới.

Năm 1894, hơn 4.000 người dân Illinois, Mỹ đã nổi dậy lật đổ những luật lệ, thuế má hà khắc. Cùng thời điểm đó, ở Anh, William Morris dựng nên một phiên bản gần giống Utopia, khôi phục lại nghề thủ công và mang những việc làm thú vị tới cho mọi người…

Hàng loạt những giấc mơ một thời của Thomas More cứ thế lần lượt được những học giả uyên bác nối tiếp nhau, tạo nên một nền triết học đầy tính ứng dụng và những cuộc cách mạng thay đổi vận mệnh nhân loại.

Ngày này, tư tưởng trong Utopia vẫn tiếp tục phát triển và gần như đã thành sự thật, tuy ở trong một phạm vi hẹp, điển hình là tại thung lũng công nghệ Silicon, Mỹ. Các văn phòng làm việc như của Facebook và Google đang nỗ lực cải tiến môi trường làm việc và mang tới sự thích thú trong công việc cho nhân viên. Tỉ phú ngành công nghệ là Peter Thiel gần đây cũng đầu tư 1 triệu USD cho dự án Viện Seasteading với ý tưởng xây dựng một thành phố tự trị ven biển.

Các nhà văn lại càng không bỏ quên Utopia. Một số cuốn sách đình đám mới xuất bản và chịu ảnh hưởng của Thomas More có thể kể tới là Number Nine Bus To Utopia của David Bramwell hay A Place Of Refuge: An Experiment In Communal Living của Tobias Jone.

Rõ ràng, địa đàng trần gian của Thomas More nay không còn là điều quá không tưởng nữa.

Share:

Sonata piano số 3 của Johannes Brahms: Biểu hiện của một thiên tài

 Chỉ với ba bản sonata piano viết trong độ tuổi 20, sau đó không bao giờ viết tiếp nữa, nhà soạn nhạc Johannes Brahms đã xác lập danh tiếng ở thế loại mà hàng thập kỷ trước, Beethoven đã truyền vào một sức sống mới mẻ, qua đó báo hiệu sự xuất hiện của một thiên tài.

Trong những năm đầu của thập niên 1830, dù lịch biểu diễn bận rộn với danh tiếng của một nghệ sĩ biểu diễn piano đang lên, Brahms bằng cách nào đó đã dành được thời gian để sáng tác bản sonata piano số 3 giọng Fa thứ (Piano Sonata No.3 in F minor), Op 5 vào khoảng từ giữa đến cuối năm 1853, sau hai bản ở các Op. 1, 2. Điều thú vị là tác phẩm này ra đời chỉ cách vài tháng thời điểm xuất hiện của bản sonata piano duy nhất của nhà soạn nhạc Hungary Franz Liszt, một tác phẩm dù chảy trôi theo những luồng suy tưởng rất khác biệt song cũng có những tương đồng về sự điêu luyện trong kỹ thuật chơi đàn, chiều sâu và sự độc đáo trong tính nhạc.


Những cuộc gặp gỡ và dự báo

Brahms với piano theo đường vòng. Ông sinh ngày 7/5/1833 tại quận Gängeviertel, thành phố Hamburg, và là con trai của Johann Jakob Brahms, một nhạc công double-bas cùng người vợ làm nghề thợ may hơn chồng 17 tuổi. Như một lẽ tự nhiên, ban đầu ông được cha dạy violin và cello với ý định cho con theo nghề của mình, nhưng sự quan tâm rõ ràng của Brahms đối với piano đã dẫn đến việc cậu theo học nhạc cụ này với một giáo viên khác, có lẽ là vô danh. Tuy nhiên, sau những lần xuất hiện khiêm tốn đầu tiên trên sân khấu hòa nhạc ở tuổi lên mười, Brahms đã trở thành học trò của Eduard Marxsen, người đã tạo cho Brahms một nền tảng vững chắc về kỹ thuật cổ điển, rất có ích với nhà soạn nhạc tương lai sau này. Do gia cảnh, Brahms đã phải kiếm tiền cho gia đình bằng việc chơi piano trong các tụ điểm khá tai tiếng ở quận cảng St. Pauli mà đám thủy thủ và những người khác thường lui tới để tiêu khiển. Năm mười lăm tuổi, Brahms đã có buổi biểu diễn độc tấu piano đầu tiên.

Vào mùa xuân năm đó, trong một chuyến lưu diễn cùng nghệ sĩ violin thích khoa trương kỹ thuật người Hungary Eduard Reményi, Brahms đã gặp Joseph Joachim, một kiểu nghệ sĩ violin với những lý tưởng âm nhạc nghiêm túc rất thân thuộc với Brahms và trở thành một trong những người bạn chí cốt của ông suốt cuộc đời. Vào tháng sáu, chuyến lưu diễn đã đưa Brahms và Reményi đến Weimar, nơi họ gặp Liszt và nhóm môn đệ khá đông đảo của ông. Trong một cuộc chia rẽ là mô hình thu nhỏ của việc hình thành các chiến tuyến trong âm nhạc Đức thời bấy giờ, Reményi đã nhanh chóng gia nhập giới thân hữu của Liszt và ở lại Weimar, trong khi Brahms rời đi và dành tháng bảy và tháng tám tại Gottingen để ghé thăm Joachim. Theo lời giới thiệu của Joachim, Brahms đã đến thăm cặp vợ chồng nhà soạn nhạc đã thành danh Robert và Clara Schumann ở Düsseldorf vào cuối tháng Chín. Schumann hẳn đã sửng sốt ngay từ lần gặp đầu này bởi bài báo nổi tiếng ông viết về Brahms trên tờ Neue Zeitschrift für Musik xuất hiện chỉ một tháng sau đó. Schumann đã viết những dòng giới thiệu như một khúc ngợi ca: “Không sớm thì muộn, ai đó sẽ phải xuất hiện theo số mệnh để trao cho chúng ta biểu hiện lý tưởng của thời đại, một người sẽ không đạt tới sự tinh thông theo từng giai đoạn mà thay vào đó là bước nhảy vọt theo cách tương tự nữ thần Minerva sinh ra từ cái đầu của thần Jupiter. Và anh ta đã đến, một dòng máu trẻ trung với những nét duyên dáng bé thơ được những vị anh hùng canh gác. Anh ta tên là Johannes Brahms…”.

Schumann là nhà phê bình âm nhạc quan trọng nhất ở Đức thời kỳ đó, và lời chứng thực dạt dào cảm xúc của ông lóe lên như rọi đèn pha vào nhà soạn nhạc trẻ vừa ngượng ngùng vừa ngập tràn biết ơn. Qua một đêm, giới âm nhạc Đức đã biết đến “vị cứu tinh trẻ tuổi của Schumann”. Vào tháng 11, Brahms đã tới Leipzig, nơi có một nhà xuất bản lớn đã xuất bản một số tác phẩm của mình và gặp gỡ nhà soạn nhạc Pháp Hector Berlioz, người rất ấn tượng với Brahms và âm nhạc của ông. “Tôi rất biết ơn anh vì đã cho tôi làm quen với chàng trai trẻ táo bạo và khác biệt này, người đã đột ngột tạo ra một thứ âm nhạc mới. Anh ấy sẽ phải chịu đựng rất nhiều mũi dùi phê phán vì những đổi mới của mình,” Berlioz viết cho Joachim.

Bản Sonata piano số 3 được viết ở giữa chuyến đi này và là điều minh chứng cho “hồi kèn lệnh thần thánh” của Schumann. Dù được viết ở thể loại sonata, đây lại là tác phẩm quy mô lớn như một bản giao hưởng, về cả kết cấu và biểu hiện. Ý tưởng âm nhạc và cả cách thức biểu lộ dường như bùng nổ tại các đường phân giới đến mức nó cần thêm một chương nhạc nữa để khám phá các hướng khác nhau với chất liệu từ các chương nhạc trước đó. Đây là tác phẩm piano độc tấu lớn nhất của Brahms, và trên thực tế đúng là bản sonata piano cuối cùng ông sáng tác.


Biểu hiện của thiên tài

Bản sonata piano No. 3 của Brahms được xuất bản vào năm 1854 với lời đề tặng nữ bá tước Ida von Hohenthal ở Leipzig. Thay vì ba hay bốn chương như truyền thống, tác phẩm này gồm tới năm chương nhạc:

I. Allegro maestoso
II. Andante. Andante espressivo — Andante molto
III. Scherzo. Allegro energico avec trio
IV. Intermezzo (Rückblick/Regard en arrière) Andante molto
V. Finale. Allegro moderato ma rubato

Chương thứ nhất mở đầu bằng các hợp âm ở mức fortissimo (cực lớn) trải rộng gần như toàn bộ âm vực của đàn piano. Là chương nhạc ở hình thức sonata, về cơ bản nó bao gồm hai nhạc đề. Nhạc đề thứ nhất được nối tiếp bằng một tiết nhạc ngắn đề cao “mô-tip định mệnh” trong Giao hưởng số 5 của Beethoven và ở cùng điệu thức Fa thứ như bản giao hưởng nổi tiếng này.

Với một số nghệ sĩ piano, chương nhạc đầu Allegro maestoso là khó định đoạt tốc độ nhất. Nó tạo ra sự khác biệt lớn nhất ở các tempo (tốc độ) mà các nghệ sĩ piano khác nhau chọn lựa. Theo quan sát của nghệ sĩ piano người Mĩ gốc Argentina Nelson Goerner, các nghệ sĩ thường tập trung vào tính chất maestoso (trang nghiêm) nên chơi quá chậm trong khi anh tin rằng Brahms đã thêm Allegro (nhanh, tươi sáng) là có ý đồ. “Nếu chơi quá chậm, âm thanh sẽ không biểu hiện được sự thiết tha tình cảm. Tôi không nghĩ đây là điều mà một Brahms ở độ tuổi đôi mươi mong muốn”.

Trọng tâm cảm xúc của tác phẩm nằm ở chương hai Andante, mà Claudio Arrau miêu tả là “khúc nhạc tình yêu đẹp nhất sau Tristan und Isolde” (vở opera của nhà soạn nhạc Đức Richard Wagner). Chương nhạc chứa đựng những khoảnh khắc dịu dàng du dương tuyệt diệu và niềm đam mê lên đến cao trào, được dẫn dắt bằng một câu trong bài thơ của C.O. Sternau:

Chiều buông chạng vạng
Ánh trăng tỏa rạng
Có hai con tim
Chung nhịp ái tình
Vui sướng vô ngần.

Chương ba, một khúc scherzo và một trio, bắt đầu ở giọng Fa thứ với một trích dẫn âm nhạc từ phần mở đầu chương kết trong bản Trio piano số 2. Op. 66 của Felix Mendelsshon. Một điều có thể ít được người ta chú ý trong chương nhạc này là sự phong phú của bè đệm. Những nốt móc kép ngay từ đầu đó tạo cho âm nhạc phẩm chất và màu sắc riêng biệt. Các quãng rất đẹp thêu dệt nên giai điệu theo một cách tuyệt vời. Trái ngược với sự hỗn loạn của khúc scherzo, khúc trio giọng Rê trưởng lại điềm tĩnh và trữ tình với những âm thanh nhẹ nhàng thanh thoát cùng phần đệm bè trầm cũng ám chỉ “mô típ định mệnh” của Beethoven.

“Thật là một sự tương phản tuyệt vời với chương nhạc đầu hùng vĩ,” Nelson Goerner nói. “Nó đẹp đến không ngờ, thật siêu phàm. Như thể những dòng âm thanh đang trôi lơ lửng giữa không trung”. Với các hợp âm rải và cách thức hòa âm, phần kết chương nhạc này luôn khiến người ta nhớ đến Harmonies du soir (Những hòa âm ban chiều) của Franzt Liszt.

Chương bốn, được đánh dấu intermezzo và đặt tiêu đề “Rückblick” (nghĩa đen: “tưởng nhớ”), bắt đầu với chủ đề ban đầu của chương hai song ở giọng Si giáng thứ. Giống như các chương thứ nhất và thứ ba, “mô típ định mệnh” nổi bật một cách rõ ràng trong suốt chương intermezzo.

Chương chậm này là một nét cấu trúc mới mẻ và một sáng tạo của Brahms – không chỉ gợi lại chương thứ hai siêu phàm mà còn gợi lại phong cách kiểu Beethoven. “Thời lượng dành cho chương này rất ngắn, chỉ gồm hai trang nhạc nhưng nó nói lên rất nhiều điều,” Goerner nói. Hiệu ứng âm thanh giống tiếng timpani tạo ra một trạng thái tình cảm rất phức tạp với đầy đủ sắc thái, vừa lo lắng, vừa cô đơn lại pha thêm một chút tự tin để tự an ủi chính mình. “Có một ô nhịp im lặng hoàn toàn, tiếp theo là tremolando bass (bass rung). Thật ngạc nhiên, ở tuổi đôi mươi mà Brahms đã có chiều sâu, độ phức tạp về tâm lý đáng kinh ngạc này và cả những kỹ thuật sáng tác để biểu hiện được nó. Người ta không thể tưởng tượng được ra bản sonata số 3 nếu thiếu đi chương nhạc này”.

Chương cuối là một khúc rondo ở điệu thức Fa thứ như chương nhạc đầu. đủ mạnh song không có những chỗ gián đoạn bạo liệt về điệu thức. Tiết nhạc mở đầu biểu cảm ở giọng Fa trưởng được đáp lại bằng một phiên bản phát triển của chủ đề rondo và tiết nhạc ở giọng Rê giáng trưởng được khép lại bằng một coda hân hoan giọng Fa trưởng giống như Sonata piano số 2 của chính Brahms.

Việc Brahms trẻ tuổi sáng tác một chương kết khép lại tác phẩm khác biệt này theo cách thuyết phục như vậy là đã ghi dấu tầm vóc âm nhạc của ông. Đúng là những ý tưởng âm nhạc thực sự trong bản sonata này xuất hiện ở các chương thứ nhất, thứ hai và thứ tư, nhưng như Goerner nói, “tạo ra một chương kết hấp dẫn như vậy là một thành tựu không kém phần ấn tượng”. Khi được tạp chí DeustchGramophon hỏi “liệu lối viết ngày càng trở nên phức tạp và đòi hỏi kỹ thuât điêu luyện của Brahms hẳn là đem lại hứng thú cho người nghệ sĩ khi chơi?”, Goerner mỉm cười và gật đầu xác nhận. “Đúng thế. Và cả sự tự do cho người nghệ sĩ tung tẩy, nếu làm chủ được kỹ thuật“.

Nghệ sĩ Goerner đã chơi bản sonata này trong nhiều năm, và hiện giờ thu âm tác phẩm cho hãng Alpha Classics. “Tôi từng biểu diễn tác phẩm này ở London vào năm 1994”, anh trả lời trên DeustchGramophon, “vậy là ít nhất là tôi đã gắn bó với tác phẩm độc đáo này 25 năm. Đây là bản nhạc rất hấp dẫn đối với tôi khi còn là một chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết và đam mê. Và giờ nó vẫn còn nằm trong vốn tiết mục của tôi”.


Trong suốt cả cuộc đời mình, Brahms thừa nhận là ông cảm thấy thoải mái hơn hẳn với kỹ thuật viết cho piano hơn là viết cho dàn nhạc, ngay cả vào cuối đời cũng vậy. Vào tháng 8 năm 1887, một năm trước khi bản sonata violin số ba được xuất bản, Brahms đã viết một bức thư cho Clara Schumann, trong đó ‘phàn nàn’ về khả năng viết cho dàn nhạc của mình, điều ông cảm nhận được khi hoàn thành bản concerto cho violin và cello. “Có lẽ tôi phải trao đổi ý tưởng này với ai đó hiểu về đàn dây hơn tôi (thật không may là Joachim đã từ bỏ việc sáng tác). Xét cho cùng, nó hoàn toàn khác biệt so với viết cho những nhạc cụ khác với đặc điểm âm thanh không chỉ có trong tai người mà còn trong cả tâm trí nữa. Khi viết cho piano, tôi biết chính xác những gì tôi viết và tại sao tôi viết theo cách này hay cách khác”. Những băn khoăn về kỹ thuật viết cho dàn nhạc luôn ám ảnh Brahms.

Ông đã ghi lại vào năm 1892 nội dung trao đổi với Hans Richter, người sẽ chỉ huy bản giao hưởng số 4 với Vienna Philharmonic của ông “Sẽ thêm một lần kém cỏi khủng khiếp nữa… Và sau đó chúng ta thấy điều đó ở đây: sự hòa âm một cách nghèo nàn ở dàn nhạc, ví dụ như thế, hay nói một cách ngắn gọn thì Brahms lại đang phạm lỗi”.

Share:

Ngọc Hoàng Kinh 1923

 ... Cuốn kinh này do hữu duyên mà có được từ bạn Đồng Đạo và tụng rất hiệu nghiệm. Bản kinh này được được Tiền bối Mạch Quốc Thoại nhọc công thực hiện và in từ năm 1923(theo tư liệu mà hậu bối này có được), trong bản này có bản diễn nghĩa của Tiền bối Trần Phong Sắc. Do từ ngữ thì cũng khác xưa nhiều nên trong bản chép lại này hậu bối có mạo phạm chỉnh sửa một số từ thôi. Nếu có sai sót gì xin chư vị lượng thứ.  Xin các vị truyền bá kinh này đến các vị hữu duyên....(LÊ TỰ TẠI)

Ngọc Hoàng Kinh bửu huấn, Ngọc hoàng đại đế bửu huấn diễn nghĩa. Kinh tụng: cử hương chú; tịnh khẩu chú; tịnh thân chú; thỉnh thổ địa chú; an quần chơn chú. Ngọc đế Thiên tôn giải tội tiêu khiển; Ngọc đế thiên tôn diên thọ tích phước..

(bản đánh máy lại ở dưới)


BẢN ĐÁNH MÁY LẠI: 
Share:

Translate