Vì sao Biết Sự thật cũng không làm ta Thay đổi Suy nghĩ?

 Vaccine có hại cho cơ thể. Mang súng bên mình khiến ta an toàn hơn. Có thể bạn không tin, nhưng người khác thì có. Có thể những niềm tin đó đều là sai, họ vẫn cứ tin. Có thể đã có ai đó chứng minh rằng họ sai, nhưng họ vẫn cứ tin thế thôi.

Nghiên cứu mới về tâm lý con người cho thấy những hạn chế của lý trí.

Vào năm 1975, các nhà nghiên cứu tại Stanford mời một nhóm sinh viên tham gia thực nghiệm về tự tử. Họ được xem những cặp di ngôn. Trong mỗi cặp, một bên được viết bởi một người bất kỳ, một bên được viết bởi một người đã tự tử. Sau đó các sinh viên phải chỉ ra đâu là di ngôn thật và đâu là di ngôn giả.

Một số sinh viên nhận thấy mình rất có năng khiếu khi thực hiện nhiệm vụ này. Trong số hai mươi lăm cặp di ngôn, họ nhận biết đúng hai mươi bốn lần. Một số khác lại khá chật vật. Họ chỉ nhận biết được đúng mười lần.

Cũng như những nghiên cứu tâm lý học khác, viễn cảnh trên đã được sắp đặt. Dù một nửa số di ngôn là thật – chúng được thu thập từ văn phòng điều tra những cái chết bất thường ở Los Angeles – nhưng điểm số đã được hư cấu. Những sinh viên được khích lệ là họ đoán đúng hết thực chất không sáng suốt hơn những người được bảo rằng họ toàn đoán sai.

Trong giai đoạn thứ hai của thực nghiệm, các sinh viên được tiết lộ rằng họ đã bị lừa trong giai đoạn đầu. Họ được bảo rằng mục đích thật sự của thực nghiệm là để đánh giá phản ứng của họ về việc nghĩ rằng mình đúng hoặc sai. (Điều này cũng là nói dối.) Cuối cùng, các sinh viên được yêu cầu ước lượng xem mình nhận biết đúng được bao nhiêu di ngôn, và họ nghĩ người khác trung bình đoán đúng được bao nhiêu lần. Lúc này, một điều khá thú vị xảy ra. Những sinh viên ở nhóm điểm cao cho rằng họ đã làm rất tốt – vượt trội hơn so với người bình thường – mặc dù họ vừa được biết là mình không có cơ sở gì để tin vào điều đó cả. Ngược lại, những người thuộc nhóm điểm thấp cho rằng họ làm tệ hơn người bình thường rất nhiều – cũng là một kết luận không có cơ sở.

“Một khi đã được hình thành, những ấn tượng sẽ bén rễ bền vững trong tâm trí”, các nhà nghiên cứu nhận định.

Một vài năm sau, một nhóm sinh viên khác của Stanford được triệu tập cho một nghiên cứu liên quan. Các sinh viên được đưa cho những mẩu thông tin về hai người lính cứu hỏa, Frank K. và George H. Lý lịch của Frank ghi rằng, ngoài những điều cần biết khác, anh ta có một cô con gái nhỏ và thích lặn biển. George thì có một cậu con trai và chơi golf. Thông tin cũng bao gồm phản ứng của hai người trong bài Kiểm tra Lựa chọn Rủi ro – An toàn. Theo một phiên bản thông tin được cung cấp thì Frank là một người lính cứu hỏa thành công, và anh luôn lựa chọn điều an toàn nhất. Trong một phiên bản khác, Frank cũng chọn những lựa chọn an toàn, nhưng anh lại là một lính cứu hỏa tệ bị cấp trên nhiều lần cho vào “bản tường trình”. Một lần nữa, giữa buổi thực nghiệm, các sinh viên được biết những thông tin họ đọc đều là giả. Sau đó họ được yêu cầu mô tả niềm tin của mình. Họ nghĩ một lính cứu hỏa thành công có thái độ thế nào đối với hiểm nguy? Sinh viên nhận được mẩu tin thứ nhất nghĩ rằng người lính cứu hỏa sẽ né tránh rủi ro. Sinh viên nhận được mẩu tin thứ hai cho rằng anh ta sẽ đón nhận nó.

Ngay cả khi chứng cứ “ủng hộ niềm tin của họ bị bác bỏ, con người cũng khó có những điều chỉnh thích đáng cho niềm tin của mình”, các nhà nghiên cứu nhận định. Trong trường hợp này thì kết quả trên lại “đặc biệt ấn tượng”, vì chỉ hai kiểu dữ liệu không thể có đủ thông tin để khái quát hóa vấn đề.

Những nghiên cứu ấy của Stanford trở nên nổi tiếng. Theo một nhóm học giả ở thập niên 70, luận điểm cho rằng con người không thể suy nghĩ đúng đắn đã khiến nhiều người kinh ngạc. Nhưng điều đó đã không kéo dài lâu. Hàng ngàn thực nghiệm sau đó đã chứng thực (và bổ sung) cho nhận định ấy. Những ai theo dõi nghiên cứu ấy – hay kể cả những người thường tìm đọc tạp chí Psychology Today – biết rằng, bất kỳ sinh viên tốt nghiệp nào cũng có thể chứng minh một người trông có vẻ lý trí lại thường có những suy nghĩ phi lý. Hiện nay nhận định này đang xác đáng hơn bao giờ hết. Nhưng vấn đề cấp thiết vẫn còn đó: Chúng ta đã trở nên như hiện nay bằng cách nào?

Trong quyển sách mới của mình, “The Enigma of Reason” (Điều bí ẩn của lý trí) (Harvard), các nhà khoa học nhận thức Hugo Mercier và Dan Sperber đã thử trả lời cho câu hỏi này. Mercier, làm việc tại viện nghiên cứu ở Lyon, Pháp. và Sperber, làm việc ở Đại học Trung Âu, Budapest, chỉ ra rằng lý trí là một đặc điểm tiến hóa, như thuyết động vật đi bằng hai chân hay thuyết 3 màu cơ bản. Nó bắt nguồn từ các thảo nguyên châu Phi, và phải được hiểu trong bối cảnh đó.

Tham khảo rất nhiều tư liệu liên quan đến khoa học nhận thức, lý luận của Mercier và Sperber đại khái là như sau: Lợi thế của loài người so với các giống loài khác là khả năng hợp tác. Hợp tác rất khó thiết lập và cũng rất khó duy trì. Với bất kỳ một cá nhân nào, hoạt động tự do luôn là lựa chọn tốt nhất. Lý trí được định hình không phải để ta giải quyết những vấn đề trừu tượng, logic hay đưa ra kết luận từ những dữ liệu lạ, mà là để giải quyết những vấn đề nảy sinh khi sống trong những nhóm cộng tác.

“Lý trí là sự thích nghi với trường xã hội được loài người tạo ra cho mình,” Mercier và Sperber viết. Những thói quen tâm lý kỳ lạ và ngu ngốc đối với người theo chủ nghĩa “trí thức” lại được người theo chủ nghĩa “tương tác” xem là khôn ngoan.

Xét một thiên kiến rất quen thuộc là “thiên kiến xác nhận”, con người thường quan tâm đến thông tin ủng hộ cho niềm tin của mình và từ chối tiếp nhận thông tin bác bỏ niềm tin ấy. Trong số rất nhiều dạng suy nghĩ sai lệch được phân loại, thiên kiến xác nhận là đáng kể nhất, đó là chủ đề có nhiều thực nghiệm đến nỗi đủ đóng thành sách giáo khoa. Một trong những thực nghiệp nổi tiếng nhất được thực hiện ở Stanford (một lần nữa vần là Stanford). Trong thực nghiệm này, các nhà nghiên cứu tập hợp một nhóm sinh viên có quan điểm khác nhau về án tử hình. Một nửa số đó cho rằng án tử hình sẽ làm giảm tỷ lệ tội phạm, nửa kia phản đối và cho rằng nó không có tác dụng gì với tội phạm cả.

Các sinh viên được yêu cầu tham gia hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất cung cấp dữ liệu ủng hộ cho quan điểm án tử hình ngăn chặn tội phạm, và giai đoạn thứ hai đưa ra dữ liệu phản bác lại điều đó. Cả hai thực nghiệm – bạn đoán đúng rồi đấy – đều là giả, và dữ liệu đều là những số liệu thuyết phục như nhau, nói một cách khách quan. Những sinh viên ban đầu ủng hộ án tử hình cho rằng thông tin khớp với quan điểm của mình rất đáng tin cậy còn thông tin phản bác thì không có sức thuyết phục, những sinh viên ban đầu chống đối án tử hình thì có suy nghĩ ngược lại với nhóm kia. Ở cuối thực nghiệm, các sinh viên được yêu cầu xác nhận lại quan điểm của mình. Những người ban đầu ủng hộ án tử hình nay quan điểm càng thêm vững chắc, còn những người chống đối thì lại càng kịch liệt hơn.

Nếu lý trí được thiết kế để đưa ra những đánh giá có cơ sở, thì rất khó để nghĩ ra một bản thiết kế nào thiếu sót hơn thiên kiến xác nhận. Mercier và Sperber lấy ví dụ, thử tưởng tượng một con chuột có cách suy nghĩ giống với chúng ta. Con chuột đó, “đinh ninh rằng không có con mèo nào ở quanh đó cả”, nó sẽ nhanh chóng bị xơi thôi. Vì thiên kiến xác nhận khiến con người gạt bỏ những dấu hiệu nguy cơ – cũng như con mèo đang đứng nấp đâu đó rình con chuột – nó là một đặc tính cần được loại bỏ. Nhưng, theo Mercier và Sperber, nó vẫn tồn tại cùng loài người chúng ta có nghĩa là bản thân nó cũng có một chức năng thích nghi, và chức năng đó có liên hệ với “tập tính siêu xã hội” (hypersociability) của chúng ta.

Mercier và Sperber đặt ra một thuật ngữ là “thiên kiến phe mình” (myside bias). Họ cho rằng con người không phải lúc nào cũng nhẹ dạ. Khi đối diện với tranh luận của người khác, ta rất dễ tìm ra sai lầm của họ. Nhưng hầu như lúc nào cũng vậy, điểm mù lại chính là nơi ta đang đứng.

Một thực nghiệm gần đây được thực hiện bởi Mercier cùng một số đồng nghiệp ở châu Âu đã chứng minh sự không cân xứng này. Người tham gia được yêu cầu trả lời một loạt những vấn đề lý luận đơn giản. Sau đó họ được yêu cầu giải thích câu trả lời của mình, và được phép thay đổi câu trả lời nếu họ nhận thấy có sai sót. Phần lớn mọi người đều thỏa mãn với sự lựa chọn đầu tiên của mình, ít hơn mười lăm phần trăm số người thay đổi suy nghĩ của họ ở giai đoạn hai.

Trong giai đoạn ba, người tham gia được cho xem một trong số những vấn đề được nêu trước đó, kèm theo câu trả lời của họ và câu trả lời của người khác với nội dung khác nhau. Một lần nữa, họ được phép thay đổi câu trả lời. Nhưng có một chút lắt léo được thêm vào: câu trả lời được gắn mác là của người khác thực chất lại chính là của người đang được xem, và người lại. Gần một nửa số người tham gia nhận ra chuyện gì đang xảy ra. Nửa còn lại bỗng tỏ thái độ chỉ trích. Gần sáu mươi phần trăm số người bác bỏ câu trả lời mà trước đó họ đã rất thỏa mãn.

Theo Mercier và Sperber, tính không cân xứng này phản ánh bổn phận của lý trí là ngăn chặn những người khác trong nhóm làm tổn hại đến bản thân mình. Sống trong một nhóm nhỏ những người săn bắt-hái lượm, tổ tiên của chúng ta ngay từ đầu đã quan tâm đến địa vị xã hội, và đảm bảo rằng mình không phải là kẻ chết thuê khi đi săn trong khi người khác cuộn mình ngủ trong hang. Lý luận rõ ràng hợp lý chẳng mang lại lợi ích gì, nhưng cãi thắng một cuộc tranh luận thì lại được nhiều đấy.

Hai trong số rất, rất nhiều vấn đề mà tổ tiên ta không phải quan tâm đến là hiệu quả răn đe của án tử hình và những tố chất lý tưởng cho một lính cứu hỏa. Họ cũng không phải so đo những nghiên cứu giả tạo, tin tức bịa đặt, hay Twitter. Họ ngày đó cũng không thể ngờ rằng lý trí ngày nay lại khiến ta đau đầu đến vậy. Mercier và Sperber có viết, “Đây là một trong số rất nhiều trường hợp mà môi trường thay đổi quá nhanh khiến chọn lọc tự nhiên không thể theo kịp.”

Steven Sloman, giáo sư tại Đại học Brown, và Philip Fernbach, giáo sư tại Đại học Colorado, đều là các nhà khoa học nhận thức. Họ cũng tin rằng tập tính xã hội là chìa khóa giải mã chức năng, hay nói đúng hơn là thiểu năng, của tâm trí con người. Họ bắt đầu quyển sách của mình, “The Knowledge Illusion: Why We Never Think Alone” (Ảo ảnh kiến thức: Vì sao ta không bao giờ suy nghĩ một mình) (Riverhead), bằng hình ảnh cái bồn cầu.

Gần như mọi người dân Mỹ, và cả những nước phát triển, đều rất quen thuộc với bồn cầu. Một cái bồn cầu bằng ceramic chứa đầy nước. Khi ta nén tay cầm, hay nhấn nút, nước – và tất cả những gì được thải vào trong đó – bị hút xuống ống nước và trôi đến hệ thống xả thải. Nhưng việc này thực sự diễn ra như thế nào?

Trong một nghiên cứu thực hiện ở Yale, sinh viên tốt nghiệp được yêu cầu đánh giá mức độ hiểu biết của mình về những thiết bị hằng ngày, bao gồm bồn cầu, khóa kéo, và ổ khóa hình trụ. Sau đó họ được yêu cầu mô tả chi tiết, giải thích cơ chế hoạt động từng bước một, và đánh giá mức độ hiểu biết của mình một lần nữa. Có vẻ như chút ít công sức này đã khiến các sinh viên nhận ra sự thiếu hiểu biết của mình, vì điểm số mà họ tự đánh giá đã giảm xuống. (Bồn cầu thực chất lại phức tạp hơn ta tưởng.)

Sloman và Fernbach bắt gặp hiện tượng mà họ gọi là “ảo ảnh mức độ hiểu biết” này ở khắp mọi nơi. Con người tin rằng họ biết nhiều, nhưng thực tế thì họ không biết nhiều đến vậy. Lý do khiến ta cứ đinh ninh với niềm tin này chính là người khác. Trong trường hợp cái bồn cầu, một người nào đó đã thiết kế cái bồn cầu cho tôi sử dụng rất dễ dàng. Con người rất giỏi làm điều này. Ta vẫn luôn dựa dẫm vào chuyên môn của người khác ngay từ khi ta biết cách săn bắt cùng nhau, đây có thể là sự phát triển chủ chốt trong lịch sử tiến hóa của loài người. Sloman và Fernbach cho rằng, chúng ta hợp tác quá tốt đến nỗi ta không còn biết được tầm hiểu biết của mình dừng lại tại đâu và của người khác bắt đầu từ đâu.

“Một ví dụ về bản tính tự nhiên mà ta dùng để phân chia lao động nhận thức là không có một ranh giới rõ ràng giữa ý tưởng và kiến thức của một người” với “ý tưởng và kiến thức của các thành viên khác” trong cùng một nhóm.

Bản chất không có ranh giới, hay nếu muốn bạn có thể gọi là mập mờ, rất quan trọng đối với thứ mà ta gọi là tiến triển. Khi con người phát minh ra những công cụ mới cho một lối sống mới, họ cũng đồng thời tạo ra một đế chế bàng quan mới, nếu mọi người ai cũng muốn tinh thông thuật luyện kim trước khi cầm đến một con dao, thời kỳ đồ Đồng cũng không bùng nổ đến thế. Khi nhắc đến công nghệ mới, tầm hiểu biết hạn hẹp được lên ngôi.

Theo lời của Sloman và Fernbach, rắc rối thật sự nằm trong phạm vi chính trị. Với tôi việc xả bồn cầu mà không cần biết nó hoạt động ra sao là một chuyện, nhưng ủng hộ (hay chống đối) lệnh cấm người nhập cư mà không biết nó là cái gì thì lại là một chuyện khác. Sloman và Fernbach trích dẫn một cuộc khảo sát được thực hiện vào năm 2014, không lâu sau khi Nga sáp nhập một phần lãnh thổ Ukraine là Crimea. Người tham gia được hỏi rằng họ nghĩ nước Mỹ nên phản ứng thế nào, và họ có thể chỉ ra Ukraine nằm ở đâu trên bản đồ không. Người càng thiếu kiến thức địa lý thì càng nhiều khả năng ủng hộ can thiệp quân sự. (Người tham gia không biết Ukraine ở đâu đến mức trung bình vị trí mà họ đoán cách xa Ukraine tới 1800 dặm, xấp xỉ khoảng cách từ Kiev đến Madrid).

Các cuộc khảo sát trên nhiều vấn đề khác cũng cho ra kết quả đáng thất vọng tương tự. “Như một quy luật vậy, cảm xúc mạnh đối với một vấn đề không xuất phát từ việc hiểu tận tường vấn đề đó,” Sloman và Fernbach đã viết. Và việc ta hay dựa dẫm vào cái đầu của người khác càng củng cố cho vấn đề này. Lấy ví dụ, nếu quan điểm của bạn về Đạo luật Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền là vô căn cứ và lập luận của tôi dựa vào đó, thì quan điểm của tôi cũng là vô căn cứ. Khi tôi nói chuyện với Tom và anh ấy đồng ý với tôi, quan điểm của anh ấy cũng là vô căn cứ, nhưng giờ có thêm người thứ ba cùng tán thành thì ta lại càng cảm thấy tự mãn về quan điểm của mình thôi. Nếu gạt bỏ tất cả những thông tin đi ngược với quan điểm của mình, thì bạn sẽ có Chính quyền Trump.

“Đây là lý do một cộng đồng trí thức có thể trở nên nguy hiểm,” Sloman và Fernbach quan sát được. Cả hai đều đã tự làm thực nghiệm với bồn cầu, thay thế thiết bị gia dụng bằng chính sách chung. Trong một nghiên cứu thực hiện vào năm 2012, họ yêu cầu người tham gia đưa ra lập trường của mình cho những câu hỏi như: Nên hay không một hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân? Hay trả lương cho giáo viên dựa trên năng lực? Người tham gia được yêu cầu đánh giá quan điểm của mình dựa trên mức độ đồng tình hay không đồng tình với những dự luật được đưa ra. Tiếp theo, họ phải giải thích, một cách chi tiết nhất có thể, tác động khi thi hành những dự luật ấy. Đa số mọi người gặp rắc rối ở giai đoạn này. Khi được yêu cầu đánh giá lại quan điểm của mình, họ liền giảm thái độ của mình, tức là họ không còn đồng ý hay phản đối kịch liệt như trước.

Từ kết quả này, Sloman và Fernbach đã nhìn thấy ành đèn le lói cho thế giới tối tăm này. Nếu chúng ta – hoặc bạn bè của chúng ta hoặc các nhà phê bình trên CNN – dành ít thời gian ra vẻ trí thức hơn và thay vào đó là cố gắng tìm hiểu nội dung của các dự luật, ta sẽ nhận ra mình chẳng biết gì cả và tiết chế quan điểm của mình. Họ cho rằng đây “có thể là cách suy nghĩ duy nhất có thể phá tan ảo ảnh mức độ hiểu biết và thay đổi thái độ của con người.”

Một cách nhìn nhận khoa học là xem khoa học như một hệ thống sửa chữa những sai lệch tự nhiên của con người. Trong một phòng thí nghiệm chuyên nghiệp, không có chỗ cho thiên kiến phe mình, kết quả có được ở phòng thí nghiệm này cũng phải có được ở những phòng thí nghiệm khác, bởi những nhà nghiên cứu không hề có bất kỳ động lực nào để chứng minh những kết quả ấy. Và đó là lý do vì sao hệ thống ấy lại thành công đến vậy, dù điều này vẫn còn đang gây tranh cãi. Tại bất kỳ thời điểm nào, một lĩnh vực có thể bị bao trùm bởi những tranh cãi, nhưng đến cuối cùng, những phương pháp luận sẽ thắng thế. Khoa học tiến về phía trước, ngay cả khi chúng ta vẫn còn đang kẹt đứng ở một chỗ.

Trong quyển “Denying to the Grave: Why We Ignore the Facts That Will Save Us” (Chối bỏ tới chết: Vì sao ta luôn thờ ơ với những sự thật có thể cứu được mình?) (Oxford), Jack Gorman, một bác sĩ tâm thần, và con gái, Sara Gorman, chuyên gia sức khỏe cộng đồng, tìm hiểu lỗ hổng giữa những gì khoa học nói với chúng ta và những gì ta nói với bản thân. Họ quan tâm đến những niềm tin bền bỉ không những sai lệch rõ ràng mà còn tiềm ẩn nguy cơ chết người, ví dụ như niềm tin vaccine là độc hại. Tất nhiên, không được tiêm vaccine mới là độc hại, đó là lý do vaccine được phát minh. “Chủng ngừa là một trong những chiến công của y học hiện đại,” hai bố con Gorman viết. Nhưng dù có vô vàn những nghiên cứu khoa học cho thấy vaccine là an toàn, và không có liên hệ nào giữa chủng ngừa và chứng tự kỷ, những người chống đối vaccine vẫn không hề thay đổi suy nghĩ. (Họ có Donald Trump về phe mình, ông đã nói rằng dù ông và vợ cho con trai Barron của mình tiêm vaccine, nhưng lại không chịu cho con tái chủng theo lịch hẹn mà bác sĩ khoa nhi đề ra.)

Hai bố con Gorman cũng cho rằng những lối suy nghĩ có phần tự hủy hoại chắc hẳn phải là một đặc điểm thích nghi tại một thời điểm nào đó. Và họ cũng tốn rất nhiều giấy mực cho thiên kiến xác nhận, họ nghĩ hiện tượng này một phần là do tác nhân sinh lý học. Họ trích dẫn một nghiên cứu cho thấy con người đạt được khoái cảm thuần túy – tăng nồng độ dopamine – khi xử lý thông tin ủng hộ niềm tin của mình. Họ nhận thấy rằng, “Dù có sai đi nữa thì việc ‘vững như kiềng ba chân’ cũng khiến ta cảm thấy thoải mái.”

Hai bố con Gorman không chỉ muốn liệt kê những cách suy nghĩ sai của con người, mà họ còn muốn chỉnh sửa chúng nữa. Họ tin rằng phải có cách nào đó để thuyết phục người ta tin rằng vaccine tốt cho trẻ em, và súng ống mới nguy hiểm. (Một niềm tin khác không thể xác minh đúng sai nhưng lại được rất nhiều người tin tưởng đó là mang súng bên mình khiến họ an toàn hơn.) Nhưng ngay tại bước này họ lại chạm trán với những vấn đề đã dự liệu. Cung cấp thông tin chính xác không mang lại hiệu quả gì cả, người ta chỉ đơn giản là mặc kệ. Kích thích cảm xúc của con người có vẻ ổn hơn, nhưng làm thế lại hoàn toàn mâu thuẫn với mục tiêu xúc tiến khoa học có cơ sở. “Thử thách đặt ra,” họ viết ở cuối quyển sách, “là tìm ra cách nắm bắt được khuynh hướng dẫn đến niềm tin sai lệch về mặt khoa học.”

“The Enigma of Reasons”“The Knowledge Illusion” và “Denying to the Grave” đều được viết trước kỳ bầu cử tháng 11. Nhưng họ đã dự liệu được Kellyanne Conway và sự trỗi dậy của “sự thật thay thế” (alternative facts). Ngày nay, có vẻ như cả nước Mỹ đang được đưa vào một cuộc thực nghiệm tâm lý đại trà được thực hiện bởi không ai khác ngoài Steve Bannon. Những tác nhân lý trí có thể nghiệm ra được giải pháp. Nhưng, trong vấn đề này, tác nhân lời lẽ lại không khiến người ta cảm thấy an tâm.

(st)

Share:

💫Mưa Vũ Trụ 💖 Yêu Thương - An Lạc - Hòa Hợp - Tiến Hóa trong Thế Giới Hỗn Loạn, Tiêu Cực & Chia rẽ 💙


via IFTTT
Share:

Làm thế nào để đối phó với các Thuyết âm mưu trong Thời đại Covid-19

 

LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI CÁC THUYẾT ÂM MƯU TRONG THỜI ĐẠI COVID-19

Ngày nay có hàng trăm thuyết âm mưu, từ các thuyết cổ điển nhất đến các thuyết kì lạ nhất.

David Bertrand

SIPHOTOGRAPHY VIA GETTY IMAGES

Trong mười năm qua, sự phát triển các mạng xã hội đã làm nổi hơn nữa sự hiện diện của các thuyết âm mưu và làm tăng thêm phạm vi của chúng. Ngày nay có hàng trăm thuyết âm mưu, từ các thuyết cổ điển nhất đến các thuyết kì lạ nhất, chẳng hạn như niềm tin cho rằng thế giới bị loài bò sát cai trị hoặc thuyết cho rằng Australia không tồn tại.
Marie Peltier (1980-)

THUYẾT ÂM MƯU – Các thuyết âm mưu từng luôn tồn tại. Theo thời gian, các thuyết đó đã được đa dạng hóa và toàn cầu hóa. Internet, vốn đã trải qua một quá trình phát triển nhanh như chớp vào đầu những năm 2000, có vẻ như đã đóng một vai trò trội nhất khi cung cấp cho chúng một lượng người theo dõi đa dạng. Đối với nhà sử học nữ Marie Peltier, vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 là một sự kiện bản lề của sự phát triển các thuyết âm mưu hiện đại, trong đó Hoa Kỳ là mục tiêu rất thường xuyên. Cuộc xâm lược của Iraq vào năm 2003 có lẽ đã giúp khuếch đại hiện tượng này, với những lời dối trá của nhà nước và những âm mưu thực vốn là một mảnh đất màu mỡ cho các thuyết âm mưu.

Trong mười năm qua, sự phát triển các mạng xã hội đã làm nổi hơn nữa sự hiện diện của các thuyết âm mưu và làm tăng thêm phạm vi của chúng. Ngày nay có hàng trăm thuyết âm mưu, từ các thuyết cổ điển nhất đến các thuyết lập dị nhất, chẳng hạn như niềm tin cho rằng thế giới bị loài bò sát cai trị hoặc thuyết cho rằng Australia không tồn tại.

Các thuyết đó dựa một phần vào các thông tin sai sự thật, với thuật ngữ “fake news [tin giả]” nổi tiếng. Vào năm 2018, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Đại học MIT đã chứng minh thành công rằng một tin giả có 70% khả năng được chia sẻ nhiều hơn so với một thông tin thật, đặc biệt trên Twitter. Lý do như sau: tin giả khơi dậy nhiều cảm xúc hơn chẳng hạn như sự ngạc nhiên, tâm lý mới lạ, sự sợ hãi hoặc ghê tởm. Ngoài ra, tin giả mang tính chính trị được lan truyền nhanh gấp 3 lần các tin khác, với tất cả những hậu quả có thể tưởng tượng được. Ví dụ, chúng ta đều biết các tin giả liên quan đến Hillary Clinton đã đóng vai trò quyết định trong cuộc bầu cử của Donald Trump vào năm 2016. Người ta cũng quy việc đắc cử của Tổng thống Brazil Jair Bolsonaro vào năm 2018 cho tin giả. Thật vậy, ông và các con trai của mình đã sử dụng mạng WhatsApp để phổ biến trên toàn quốc thông tin về một cẩm nang hướng dẫn giáo dục giới tính, mà lẽ ra sẽ được phe cánh tả phổ biến ở các trường học để giáo dục trẻ em về tình dục đồng giới. Trên thực tế, cẩm nang hướng dẫn này không hề tồn tại.

Các âm mưu hàng ngày

Christian Tal Schaller (1944-)

Hàng ngày, tất cả chúng ta đều đối mặt với các thuyết âm mưu và việc phân biệt đúng sai cần có thời gian và kỹ năng. Gần đây, tôi đã nhận ra rằng mình đã tốn không biết bao nhiêu năng lượng khi quyết định tham gia trò chơi đó trong thời kỳ phong toả xã hội khi thường xuyên nhận được những video theo thuyết âm mưu qua các mạng xã hội. Tôi đã chọn cách không trả lời các video đó để tránh những cuộc thảo luận bất tận và những căng thẳng mà chúng có thể tạo ra. Tuy nhiên, một ngày nọ, tôi đã quyết định phân tích từng điểm một một video được một người bạn gửi cho tôi. Đó là một video về chống vắc-xin của Christian Tal Schaller, một bác sĩ theo thuyết âm mưu rất tích cực trên Internet. Ngay từ những giây phút đầu tiên, video này đã khiến tôi ngờ vực bởi giọng điệu và những lập luận được sử dụng.

Tôi vẫn cố xem video cho đến hết. Sau đó tôi bắt gặp một sơ hở, giáng một đòn quyết định vào cơn mê sảng hoang tưởng của Schaller. Schaller đã khẳng định rằng Bill Gates đã giết chết hàng trăm trẻ em ở châu Phi bằng vắc-xin chống sốt rét. Thế nhưng, tôi đã thực hiện một chuyến đi hai tháng đến Châu Phi và biết được vắc-xin này không hề tồn tại. Làm thế nào để một vắc-xin có thể giết chết hàng trăm người nếu nó không tồn tại? Và vì sao lại quy những cái chết tưởng tượng đó lên lưng của Bill Gates? Sau đó, tôi dành hai tuần để mổ xẻ đoạn video và đã gửi phản hồi của mình cho người bạn đó thông qua một tài liệu phân tích chi tiết. Ông ấy cảm ơn tôi và nói rằng ông ấy đã học được rất nhiều điều. Tôi hài lòng, và nhẹ nhõm… Vì vậy, có vẻ như nỗ lực phát hiện những thông tin sai lệch trong các thuyết âm mưu, đồng thời tránh bêu xấu người đưa tin sai là một phương pháp tốt. Sau này, tôi quyết định chia sẻ kinh nghiệm này với các sinh viên của tôi trong khuôn khổ của một trong các bài giảng của tôi về tư duy phản biện, thành kiến nhận thức và phân tích thông tin.

Giải mã các thuyết âm mưu

Việc giải mã các thuyết âm mưu là một công việc đồ sộ lặp đi lặp lại như huyền thoại về Sisyphus, do các thuyết âm mưu mới xuất hiện một cách thường xuyên. Nhưng với kinh nghiệm, chúng ta có thể học được cách phát hiện chúng một cách nhanh hơn. Bất luận là cũ hay mới, các thuyết âm mưu này thường sử dụng những thành phần giống nhau. Như ví dụ được trích dẫn ở trên cho thấy, một trong những điểm mạnh của các thuyết âm mưu là chúng pha trộn cái đúng và cái sai một cách tinh vi để gieo rắc sự ngờ vực. Đó là lý do vì sao chúng ta đôi khi bị cám dỗ tin vào điều đó và rất khó để nhận ra. Ngày nay, chúng ta đặc biệt thấy thuyết âm mưu xuất hiện vào lúc mà mọi người đều đeo khẩu trang và vào lúc mà ai cũng đang chờ đợi một vắc-xin chống lại Covid-19.

Từ nhiều năm nay, các thuyết âm mưu đã cáo buộc vắc-xin gây ra chứng tự kỷ, tê liệt và đa xơ cứng. Chúng ta đặc biệt trách cứ vắc-xin có chứa chất nhôm. Thế mà, chúng ta cũng biết rằng nhôm có thể gây hại cho sức khỏe. Xét riêng rẻ, hai khẳng định nói trên đều đúng. Ngược lại, nếu kết hợp [hai khẳng định nói trên] với nhau, nó có thể làm chúng ta tin rằng vắc-xin nguy hiểm cho sức khỏe, điều này là sai. Nhôm được sử dụng như một chất bổ trợ trong một số vắc-xin để thúc đẩy sự phản ứng miễn dịch, và chúng ta biết rằng nhôm có thể có hiệu ứng gây độc thần kinh với liều lượng lớn. Nhưng liều lượng [nhôm] có trong vắc-xin thấp hơn tới mười lần so với liều lượng nhôm mà chúng ta hấp thụ hàng ngày qua thức ăn, điều này khiến cho mọi hiệu ứng gây độc [của nhôm] là điều bất khả thông qua vắc-xin.

Để hất cẳng những kẻ theo thuyết âm mưu, chúng ta có thể xác định rằng những người đang nghiên cứu vắc-xin chống lại Covid-19 không dự kiến sử dụng chất nhôm trong bất kỳ trường hợp nào. Một số nhóm người chống lại việc đeo khẩu trang cũng pha trộn cái đúng và cái sai, khi cho rằng việc đeo khẩu trang sẽ rất nguy hiểm bởi vì việc đó sẽ tập trung lượng khí CO2 mà bạn thải ra. Trên thực tế, lượng khí CO2 có tăng lên trong các khẩu trang, bởi vì chúng ta thải ra CO2 bên trong khẩu trang. Điều đó có thể khiến bạn khó xử khi chưa quen, như tất cả chúng ta đều đã trải nghiệm. Nhưng thực tế là lượng tăng khí CO2 này vẫn còn quá nhỏ để có thể gây ngộ độc. Người ta đã chứng minh rằng việc đeo khẩu trang không làm thay đổi lượng oxy trong máu. Trong trường hợp ngược lại, ví dụ, sẽ rất khó để giải thích vì sao các bác sĩ phẫu thuật có thể tiến hành các ca phẫu thuật trong nhiều giờ liền, trong khi phải đeo khẩu trang.

Những kẻ theo thuyết âm mưu không tin vào sự ngẫu nhiên

Một trong những đặc điểm của các thuyết âm mưu là chúng thường nhầm lẫn giữa sự tương quan và luật nhân quả. Sự tương quan giữa hai hiện tượng có thể xảy ra từ sự ngẫu nhiên, hoặc từ một nguyên nhân chung cho cả hai hiện tượng đó. Nhưng những kẻ theo thuyết âm mưu thường không tin vào sự ngẫu nhiên. Ngược lại, họ tin rằng mọi thứ đều gắn kết với nhau, được tổ chức và lên kế hoạch từ trước bởi những người có ý đồ xấu và có nhiều quyền lực, như các chính trị gia, các nhà khoa học hay các doanh nhân như Bill Gates. Họ cũng không tin vào sự trùng hợp. Vì thế, có một số thuyết cho rằng Covid-19 xuất hiện vì mạng 5G. Những kẻ tuyên truyền điều đó đã sử dụng những bản đồ cho thấy mối tương quan giữa sự phát triển mạng 5G ở một số vùng với sự xuất hiện của virus corona, đặc biệt ở các đô thị lớn như Vũ Hán. Vấn đề thứ nhất, người ta đã chứng minh rằng một số kẻ theo thuyết âm mưu đó đã sử dụng những bản đồ giả, không chứng minh được sự hiện diện của mạng 5G trong thực tế, mà là của mạng cáp quang. Vấn đề thứ hai, người ta đã bắt đầu những thử nghiệm đầu tiên của mạng 5G từ khoảng hai năm trước khi Covid-19 xuất hiện. Bên cạnh đó, điều khá lô-gic là virus này và mạng 5G đều chủ yếu được phát triển ở những vùng đông dân cư. Vì vậy, mật độ dân số có thể giải thích sự hiện diện của một mối tương quan nào đó giữa virus và mạng 5G theo vùng, nhưng điều này không có nghĩa là mạng 5G là nguồn gốc xuất hiện của Covid-19. Theo lô-gic này, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng mức độ ô nhiễm trong không khí có thể là nguyên nhân gây ra đại dịch, vì các thành phố lớn bị ô nhiễm và lây nhiễm nhiều hơn.

Điều chúng ta cần chú ý

Có nhiều yếu tố khác mà chúng ta nên chú ý khi đối mặt với một thuyết âm mưu. Thuyết này có thế giới quan thường mang tính định mệnh và bi quan, và những kẻ phát tán tin giả không tập trung vào những giải pháp mang tính xây dựng để khắc phục vấn đề. Họ chỉ mời bạn “thức tỉnh”, thôi làm “cừu non”, nổi loạn và đặc biệt là chia sẻ video lên các mạng xã hội. Họ mời bạn luôn ngờ vực mọi thứ và không có sắc thái, đặc biệt đối với tất cả những gì mang tính “chính thức”. Điều này có thể giải thích vì sao những kẻ bảo vệ các ý tưởng theo thuyết âm mưu thường gặp khó khi tranh luận và khó chấp nhận một quan điểm khác với quan điểm của họ. Họ có một dạng ám ảnh đối với các ý tưởng của họ và không thể hiện một trí tuệ nhiều tính linh hoạt. Trong khi tìm cách thuyết phục, họ tin vào việc nắm giữ được sự thật và được khai tâm một hiểu biết ẩn mà người khác không biết. Vì vậy, có một dạng chiều kích bí hiểm trong một số thuyết âm mưu, giống như những gì mà chúng ta có thể thấy trong các phong trào tôn giáo có khuynh hướng giáo phái. Hơn nữa, tư duy phản biện được trình bày [trong các thuyết âm mưu] giống như một đức tính cần thiết, trong lúc nó chỉ được sử dụng theo một chiều hướng duy nhất mà thôi.

Những kẻ tin vào thuyết âm mưu hiếm khi tham khảo các trang web xác minh tính thực tế [fact checking] và họ chỉ trích giới truyền thông được gọi là “chính thống” rất nhiều. Nhưng họ không hề chỉ trích giới truyền thông theo thuyết âm mưu mà họ tham khảo rất nhiều. Vì vậy, họ là nạn nhân của một thiên kiến khẳng định mãnh liệt, khi tự giam mình trong một vũ trụ truyền thông giới hạn ở Internet, và thường chỉ coi thông tin theo hướng của họ là những thông tin có giá trị.

Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những kẻ theo thuyết âm mưu thường có lòng tự trọng khá thấp, ít hài lòng với đời sống của họ và tin rằng “hệ thống” là nguyên nhân gây ra các vấn đề của họ. Tâm lý nắm giữ sự thật và nhu cầu rằng mình là có lý, vì thế, sẽ trở thành một phương tiện để định giá bản thân, giống như một kiểu trả thù. Những cộng đồng nào được phát triển xoay quanh các thuyết âm mưu cũng mang lại sự hậu thuẫn và một tâm lý thuộc về.

Patrick Leman
Marco Cinnirella

Ở Hoa Kỳ, chúng ta có thể thấy điều đó ở những nhóm người tin vào trái đất phẳng (“flat earther”) hoặc ở những tín đồ QAnon, những người thể hiện sự đoàn kết trên Internet hoặc thông qua việc tổ chức các cuộc họp. Các nhà tâm lý học Patrick Leman và Marco Cinnirella cũng nhận thấy rằng những kẻ theo thuyết âm mưu thường nhầm lẫn giữa nguyên nhân và hệ quả, và tin rằng không thể có hệ quả lớn nếu không có nguyên nhân lớn. Ví dụ, đối với họ, ảnh hưởng của đại dịch hiện nay quá lớn đến nỗi có thể tin rằng đó là tác phẩm của một âm mưu khổng lồ nhằm làm tổn hại đến dân số thế giới. Đây đặc biệt là những gì mà bộ phim tài liệu “Hold Up [Hãy vững tin]” gợi ý, được lan truyền rộng rãi trên các mạng xã hội trong vài ngày qua. Theo cùng luồng ý tưởng đó, nếu vào năm 2015, Bill Gates đề cập đến những rủi ro của một đại dịch có thể xảy ra trong tương lai, thì chắc chắn là ông đã dàn xếp một đại dịch mà ngày nay chúng ta đang trải nghiệm.

Cuối cùng, có thể sử dụng một phương pháp khác để phát hiện và đặt lại vấn đề của các thuyết âm mưu, đó là việc chỉ ra nhiều mâu thuẫn của chúng. Ví dụ, một thuyết sẽ cố thuyết phục rằng Covid-19 không tồn tại, trong khi một thuyết khác sẽ giải thích rằng virus này không nguy hiểm hơn bệnh cúm. Một người sẽ nói rằng việc thời tiết nóng lên toàn cầu là một trò lừa bịp, trong khi một người khác sẽ cố chứng minh rằng đại dịch là một âm mưu có tổ chức để làm giảm dân số thế giới nhằm làm giảm tình trạng thời tiết nóng lên toàn cầu. Thật khó để tìm thấy sự chặt chẽ trong các lập luận nói trên. Thực tế là các lý thuyết đó dựa trên sự thiếu hiểu biết, sự bất định và sự sợ hãi của chúng ta. Họ cũng dựa trên sự không chắc chắn của các nhà khoa học, những người phải đối phó với một hiện tượng mới, vốn cần có thời gian để nghiên cứu và tìm hiểu. Nhưng khi các thuyết âm mưu tìm cách áp đặt sự chắc chắn và đưa ra những đáp án đơn giản cho một tình thế phức tạp, thì khoa học vẫn tiến từng bước nhỏ và luôn dành chỗ cho sự tra vấn. Từ nay, chúng ta cần tự tìm cho mình những phương tiện để có thể phân biệt được giữa cái đúng và cái sai.

David Bertrand

Giáo sư tâm lý học

Share:

5 Thông điệp Sâu sắc ẩn sau Phim Hoạt hình Soul (Cuộc Sống Nhiệm Màu)

 Điều gì khiến bạn là chính bạn? 

Không chỉ mang lại cho người xem một thế giới với những ý tưởng lạ kỳ, phim hoạt hình Soul còn truyền tải những thông điệp nhỏ nhưng vô cùng quý giá. 

SOUL – CUỘC SỐNG NHIỆM MÀU là bộ phim hoạt hình mới nhất của Pixar, được ra mắt khán giả toàn cầu vào dịp lễ Giáng Sinh vừa qua. Soul nhanh chóng nhận được những lời khen có cánh từ giới phê bình và được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất từ xưởng phim “cây đèn bàn”. Không chỉ mang đến một trải nghiệm đầy tiếng cười và âm nhạc tuyệt vời, Soul còn gửi gắm đến người xem những bài học nhỏ bé mà đong đầy ý nghĩa.

Nhân vật chính là Joe Gardner một giáo viên dạy nhạc ở trường trung học. Anh vừa nhận được một cơ hội duy nhất trong đời khi có thể được tham gia chơi Jazz cho một ban nhạc nổi nhất thành phố. 

Nhưng một bước chân sai lầm đã đưa anh từ thành phố New York hoa lệ đến Cõi Trước – một nơi kỳ diệu mà ở đó các linh hồn được nhận tính cách, sở thích trước khi họ đi đến Trái Đất. Quyết tâm trở về cuộc đời của chính mình, Joe hợp tác với một linh hồn bất hảo mang tên 22 – người chưa bao giờ hiểu được sự hấp dẫn của cuộc sống loài người. Joe cố gắng hết mình để cho 22 thấy cuộc sống này nhiệm màu như thế nào, đồng thời anh ấy cũng khám phá ra câu trả lời quan trọng cho đời người.

Đến từ đạo diễn kỳ cựu của Pixar, Pete Docter, Soul tiếp nối thành công của những bộ phim hoạt hình bom tấn trước đó (Up, Monsters, Inc., Inside Out), mang lại cho người xem một thế giới với những ý tưởng lạ kỳ, mong muốn truyền tải những thông điệp nhỏ nhưng cũng vô cùng quý giá.

cảnh trong phim hoạt hình soul

Ảnh: Disney/Pixar

1. CHÚNG TA RẤT DỄ TRỞ THÀNH NHỮNG “LINH HỒN LẠC LỐI”

Nổi tiếng với việc hình tượng hóa những khái niệm trừu tượng như các cảm xúc chi phối con người (Inside Out), Pete Docter trở lại với bộ phim hoạt hình Soul, kể về cậu chuyện làm sao để một linh hồn có được tính cách và sở thích. Không những thế, các nhà làm phim của Pixar còn đưa ra một hình ảnh vô cùng quen thuộc trong xã hội hiện đại – bệnh trầm cảm – thông qua hình tượng “linh hồn lạc lối”. Tại Cõi Trước, Joe đã đụng độ những linh hồn lạc lối với hình thù màu đen và xúc tu vươn dài đáng sợ. Bộ phim giải thích đây là linh hồn của những cá nhân trên Trái Đất đang bị mắc kẹt trong guồng quay của cuộc sống, hoặc trở nên ám ảnh với việc thực hiện ước mơ của mình.

khoảnh khắc trong phim hoạt hình soul

Ảnh: Disney/Pixar

Sống với đam mê của mình là một điều đáng được khích lệ, tuy nhiên, bạn sẽ rất dễ “bị lạc hướng” nếu chỉ mãi theo đuổi một mục tiêu vô thường. Hãy quan tâm đến cách chúng ta phân bổ thời gian cho công việc và đừng để nó chiếm lấy toàn bộ cuộc sống của mình.

2. ƯỚC MƠ CÓ THỂ KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC, NHƯNG MỌI CHUYỆN VẪN SẼ ỔN THÔI

Joe luôn nghĩ rằng ước mơ của người bạn Dez là trở thành một thợ cắt tóc, vì đó là tài năng của cậu ta. Dez chia sẻ rằng ban đầu cậu mong muốn trở thành một bác sĩ thú y. Tuy nhiên, sau khi con trai của Dez bị bệnh, kế hoạch của Dez thay đổi vì học nghề cắt tóc sẽ tiết kiệm hơn. Cuộc đời không phải lúc nào cũng đi theo kế hoạch, và Dez đã thích nghi với sự thay đổi để tìm được một đam mê mới cho mình.

triết lý sống trong phim hoạt hình soul

Ảnh: Disney/Pixar

Kemp Powers, đồng đạo diễn và viết kịch bản của Soul, chia sẻ đây là một trong những phân đoạn yêu thích nhất của ông. Điện ảnh thường hay lãng mạn hóa việc theo đuổi ước mơ, tuy nhiên, với Soul, tất cả mọi công việc đều có vẻ đẹp riêng, và bạn không nhất thiết phải “thực hiện ước mơ” để có một cuộc sống hạnh phúc.

3. HÃY TRÂN TRỌNG NHỮNG ĐIỀU NHỎ BÉ

Trong chuyến ghé thăm Trái Đất lần đầu tiên, linh hồn 22 (Tina Fey thủ vai) đã tìm được hạnh phúc từ những điều tưởng chừng như bình thường nhất đối với Joe. Cô hào hứng đu đưa trên chuyến tàu điện nhàm chán. Cô thưởng thức hương vị của những miếng pizza và bánh mì rẻ tiền. Cô nhìn thấy vẻ đẹp của một quả chò nâu rơi, giai điệu của nhạc sĩ bên đường, thậm chí cả việc đi bộ bằng chân.

khoảnh khắc trong phim hoạt hình soul

Ảnh: Disney/Pixar

Soul nhắc nhở chúng ta rằng, đôi lúc, những khoảnh khắc nhỏ bé, bình dị, đời thường lại quý giá nhất. Cuộc chạy đua để đạt được danh vọng, các giá trị vật chất cuối cùng vẫn là vô nghĩa khi chúng ta qua đời. Điều duy nhất còn sót lại sẽ chỉ là những ký ức đẹp, tình yêu và sự bao dung.

4. VÀ ĐỪNG QUÊN NHỮNG KHOẢNH KHẮC TRỌNG ĐẠI

Một trong những phân đoạn ấn tượng nhất của Soul là khi Joe hoàn thành đêm diễn jazz trong mơ của mình và bỗng hỏi “Giờ thì sao?”. Dorothea Williams kể cho ông nghe câu chuyện về một chú cá nhỏ đi tìm đại dương. Đến khi chú ta đã bơi ra biển, chú vẫn nghĩ rằng đây chỉ là nước, không phải đại dương.

cuộc trò chuyện trong phim hoạt hình soul

Ảnh: Disney/Pixar

Soul khai thác một góc nhìn rất thực tế, khi chạm đến mục tiêu của cuộc đời mình rồi – chúng ta sẽ làm gì tiếp theo. Đôi lúc chúng ta mãi tập trung vào mục tiêu cuối cùng mà quên tận hưởng những niềm vui trên cuộc hành trình đến đích.

5. ĐAM MÊ CỦA BẠN KHÔNG PHẢI LÀ MỤC ĐÍCH SỐNG CỦA BẠN

Mục đích tồn tại của mỗi người là gì? Câu hỏi vĩ đại mà Soul muốn cùng người xem tìm câu trả lời. Xuyên suốt bộ phim, Joe đã luôn nghĩ tìm kiếm được đam mê của 22 chính là chìa khóa để giúp 22 nhận ra lẽ sống. Tuy nhiên, theo Soul, tài năng hay đam mê chỉ là một phần trong giá trị của mỗi con người.

thông điệp trong phim hoạt hình soul

Ảnh: Disney/Pixar

“Rất nhiều người trong chúng ta lớn lên được dạy rằng phải tìm cách để trở nên có giá trị”, đạo diễn Pete Docter chia sẻ. “Đó là lý do đôi lúc, một vài ước mơ trở thành đường cùng đối với nhiều người. Một trong những thông điệp chính mà Soul muốn nhắn nhủ chính là: chỉ cần bạn sống, bạn đã có giá trị. Tất cả chúng ta đều xứng đáng tận hưởng những điều cuộc sống này mang lại”.

Đong đầy những bài học nhỏ về cuộc sống, Soullà một bộ phim hoạt hình hoàn hảo để kết thúc một năm 2020 nhiều biến động và bắt đầu năm 2021 tươi sáng hơn.

Chúng ta hãy cùng xem phim (bạn có thể click xem toàn màn hình ở góc phải dưới):

Share:

Tại sao thuyết âm mưu của nhóm QAnon lan truyền rộng rãi được trên internet?

 Không gian mạng ngày nay đang mang lại nhiều giá trị tích cực cho sự phát triển của xã hội và cá nhân. Tuy nhiên, cùng với những lợi ích to lớn, các đe dọa từ không gian mạng đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia. Bên cạnh tác động tích cực thì đây cũng là không gian tạo cơ hội cho những kẻ ẩn danh tuyên truyền, phát tán các thuyết âm mưu phi logic, ảnh hưởng xấu đến xã hội thực. Một trong những nhóm đó là QAnon, đã hoạt động mạnh mẽ trên mạng xã hội ở Mỹ trong 4 năm qua, gây ra những hậu quả khó lường. Các hành động quá khích của các chủ tài khoản là thành viên của QAnon hiện không còn dừng ở phạm vi không gian mạng, mà đã trở thành một vấn nạn trong đời sống thực tế.

 


Nhiều chuyên gia cho rằng các mạng xã hội đã hành động chậm chạp khi QAnon phát triển nhanh chóng.

Ảnh: Getty.


* Thuyết âm mưu QAnon là gì?
        QAnon là các nhóm hoạt động trên không gian mạng internet, do những người bí ẩn tạo ra, chuyên phát tán về các thuyết âm mưu. QAnon khởi nguồn từ các đoạn viết ngắn do một nhân vật ký tên Q đưa lên các diễn đàn trực tuyến. Người ta phỏng đoán Q có thể là người trong bộ máy chính quyền Mỹ, giữ chức vụ cao hay thậm chí đây là bí danh của một nhóm người cùng chia sẻ mật mã truy cập tài khoản. Q thường viết các mẩu chuyện mơ hồ và người đọc phải tìm cách giải mã để hiểu thông điệp của Q muốn nói gì.
Giống như nhiều thuyết âm mưu, QAnon phục vụ cho mục đích chính trị. Nhóm này nổi lên hồi năm 2017, xuất hiện trên nền tảng web 4Chan. “Anon” trong tên nhóm là chữ viết tắt của “nặc danh”, là tên gọi của tất cả người dùng nền tảng 4Chan.
Theo New York Times, phong trào QAnon đến nay đã thu hút rất nhiều người tham gia. Nhóm này cũng chuyển sang hoạt động mạnh mẽ trên các nền tảng truyền thông lớn hơn như Facebook, Twitter…

*Vì sao lan truyền rộng rãi trên internet?
         QAnon lan rộng nhờ vào một cộng đồng gắn kết, cùng bỏ công sức để phổ biến chúng. Điểm đặc biệt khiến QAnon trở thành hiện tượng phổ biến là do họ có những thành viên nhờ tài ăn nói, nhờ lối lập luận chặt chẽ đã làm nhiều người nếu như trước đó còn lung lay trong suy nghĩ, thì sau đã quay ra tin tưởng tuyệt đối vào các câu chuyện mà họ đưa ra.  Lý giải điều này, James Grimmelmann, một giáo sư tại Đại học Luật Cornell, chuyên nghiên cứu về luật Internet và các mạng xã hội cho biết, mọi người chấp nhận những thuyết này vì chúng giúp lý giải một thế giới đầy những sự ngẫu nhiên; và cho dù chúng ta cảm thấy chúng đã đi quá xa, thì chúng vẫn có thể mang lại một chút cảm giác về sự thoải mái và an toàn.
Các thuyết âm mưu mà nhóm QAnon phát tán có thể kể đến như: họ cho rằng nước Mỹ đang bị cai trị bởi một “tổ chức tội phạm” bao gồm các cựu tổng thống Bill Clinton và Barack Obama, tỷ phú George Soros và nhiều ngôi sao Hollywood khác nhau. Nhiều thông điệp của QAnon mang tính chất bài Do Thái và cực đoan cánh hữu.
Trong số những người ủng hộ và tin theo nhóm QAnon, có khá nhiều người thuộc cánh hữu ủng hộ Tổng thống Mỹ đương nhiệm Donald Trump. Bởi vậy, họ đã tin vào những thuyết âm mưu vô căn cứ rằng trong nhiều thập kỷ qua, một “tổ chức tội phạm” đã thâu tóm và lãnh đạo nước Mỹ. Theo họ, Tổng thống Trump đang là mục tiêu chống phá của một âm mưu bí mật, song chính ông Trump là người được giới quân đội Mỹ cử ra làm tổng thống để điều tra, bắt giam và trừng trị “tổ chức tội phạm” trên. Xuất phát từ thuyết âm mưu này, các thành viên QAnon đã biến các mạng truyền thông xã hội trở thành "chiến trường" đả phá các đối thủ chính trị của Tổng thống Trump. Các hành động quá khích của các chủ tài khoản là thành viên của QAnon hiện không còn dừng ở phạm vi không gian mạng, mà đã trở thành một vấn nạn gây ảnh hưởng đến đời sống thực tế của nhiều người.
          Một dẫn chứng khác về sự nguy hiểm của việc lan truyền các thuyết âm mưu của nhóm QAnon là về nguồn gốc virus corona gây bệnh COVID-19 thời gian vừa qua. Những loại thuyết âm mưu và thông tin giả mạo liên quan đến dịch COVID-19 này đã gây ra những hệ lụy nghiêm trọng và tồi tệ không kém gì mức độ hủy diệt của con virus gây chết người này. Kể từ khi dịch bệnh này xuất hiện vào cuối năm 2019 ở Vũ Hán (Trung Quốc) và sau đó lan ra toàn thế giới, QAnon cùng nhiều nhóm lan truyền thuyết âm mưu đã hoạt động rất mạnh trên các mạng xã hội. Mạng internet đã tràn lan các thông tin sai sự thật về nguồn gốc của virus corona và cách để bảo vệ bản thân khỏi loại virus này. Một số thuyết âm mưu trong số này rất nguy hiểm, một số lại kỳ quặc, còn một số lại mang tính phân biệt chủng tộc rất rõ ràng.
Những thuyết âm mưu liên quan đến virus corona được lan truyền trên mạng có thể kể đến như: virus corona thuộc sở hữu của Bill Gates và được phát tán vì những mục đích đáng ghê tởm; hay khuyên mọi người uống chất tẩy trắng để diệt virus corona; hay thuốc trị sốt rét hydroxychloroquine là "thuốc chữa" COVID-19 và khẩu trang hoàn toàn không cần thiết; hoặc cho rằng virus corona là một vũ khí sinh học…
Tất cả các thuyết âm mưu đó dường như được dựng lên để lợi dụng sự quan tâm rất lớn của mọi người về loại virus này. Chúng liên tục được thêu dệt và gây hoang mang, đến nỗi Twitter đã phải ngắt các kết quả tìm kiếm để lọc các nội dung không đáng tin cậy về virus corona và Google đã phải triển khai "Cảnh báo SOS" để cung cấp các nguồn thông tin đáng tin cậy cho những người tìm kiếm thông tin về virus này.
Các nội dung mang tính âm mưu còn được đăng vào những nhóm tưởng như chẳng liên quan như nhóm về Yoga, nuôi dạy con trẻ. Những thuyết âm mưu của QAnon có thể khiến người đọc hiểu sai về sức khỏe hay việc buôn bán trẻ em.
Theo truyền thông Mỹ, Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã coi QAnon là mối đe dọa khủng bố tiềm tàng trong nước. Phong trào này hiện đang phát triển mạnh trên Twitter, hay Facebook, một số thành viên của nhóm này thậm chí còn tham gia tranh cử vào Nghị viện vào tháng 11 tới. Càng gần đến ngày bầu cử, các tin tức giả cũng như thuyết âm mưu được đưa ra ngày càng nhiều trên các mạng xã hội. Theo Mike DuHaime, chiến lược gia nổi tiếng của đảng Cộng hòa, những thuyết âm mưu và tin đồn trên internet cứ luôn tồn tại bất kể ai là người chiến thắng cuộc bầu cử vào tháng 11 tới. Điều này một phần là do sự phân cực ngày càng tăng trong nền chính trị Mỹ.

* Và hành động mạnh tay của các trang mạng
Vì hoạt động của nhóm QAnon rõ ràng không chỉ gây ra thiệt hại trên mạng internet mà còn có thể gây ra những ảnh hưởng nguy hiểm đến cuộc sống thực của nhiều người, nên các nhà mạng như Facebook, Twitter, TikTok… đã quyết định hành động chống lại nội dung của những người truyền báo thuyết âm mưu QAnon. Thời gian qua, các nền tảng mạng xã hội đã dỡ bỏ mạnh tay đối với các tài khoản có liên quan đến phong trào QAnon.
Cụ thể, vào ngày 19/8/2020, Facebook tuyên bố đã dỡ bỏ hàng trăm nhóm có liên quan đến QAnon và áp đặt hạn chế đối với gần 2.000 nhóm khác, trong một chiến dịch mà Facebook cho là nhằm ngăn chặn tình trạng kích động bạo lực trên mạng xã hội. Theo đó, Facebook đã gỡ hơn 790 nhóm, 100 trang và 1.500 quảng cáo có liên quan đến phong trào QAnon, và hơn 300 từ khóa (hashtag) đã bị chặn trên mạng xã hội này.
Ngoài ra, Facebook cũng áp đặt hạn chế đối với hơn 1.950 nhóm và 440 trang trên nền tảng này và hơn 10.000 tài khoản Instagram. Mạng xã hội phổ biến này cũng xác nhận đã xóa tài khoản hơn 980 nhóm và hạn chế các từ khóa liên quan đến các tổ chức phiến quân và những đối tượng kích động bạo loạn. 
Facebook cũng thông báo mở rộng quy định nhằm vào các nhóm và phong trào tiềm ẩn nguy cơ lớn đe dọa an toàn cộng đồng, nhưng vẫn chưa nghiêm trọng tới mức có thể xếp vào danh sách các tổ chức nguy hiểm. Theo đó, các nhóm này sẽ bị cấm xuất diện trên Facebook. Mạng xã hội này cũng cấm nội dung truyền bá tư tưởng bạo lực hay vũ khí, hay gợi ý dùng chúng dù không trực tiếp tổ chức thực hiện. Theo chính sách mới, Facebook sẽ hướng tới việc hạn chế tuyên truyền các nội dung bạo lực, gỡ bỏ các trang, nhóm và tài khoản tổ chức thảo luận về các vụ bạo lực tiềm tàng. Facebook nhấn mạnh các phong trào và nhóm này phát triển rất nhanh, do đó mạng xã hội sẽ theo dõi chặt chẽ và tham vấn các chuyên gia bên ngoài để siết chặt chính sách nhằm vào các đối tượng liên quan.
Facebook nêu rõ mục đích của việc mạnh tay xóa bỏ các tài khoản trên là nhằm chặn các tài khoản liên quan đến các nhóm vô chính phủ cổ xúy cho hành động bạo lực trong bối cảnh xuất hiện nhiều cuộc biểu tình, các tổ chức vũ trang có trụ sở tại Mỹ và QAnon gia tăng hoạt động.
Trước Facebook, nhà mạng Twitter cũng đã có những hành động mạnh tay đối với phong trào QAnon khi vào tháng 7/2020, Twitter cũng thông báo đã dỡ bỏ hơn 7.000 tài khoản có liên quan đến phong trào QAnon do quan ngại về tình trạng lạm dụng và quấy rối, cho rằng điều này sẽ giúp hạn chế những người ủng hộ phong trào này truyền bá các thuyết âm mưu. Theo đó, Twitter đã đình chỉ hoàn toàn các tài khoản đăng thông tin về những chủ đề vi phạm chính sách của hãng hay các tài khoản cấu kết với nhau để "đánh hội đồng" một cá nhân nào đó, hay những tài khoản tìm cách "lách" các chế tài của Twitter. Hoạt động chia sẻ các đường link liên quan đến QAnon tại đây cũng bị chặn. Người phát ngôn của Twitter nêu rõ khoảng 150.000 tài khoản sẽ không xuất hiện khi người dùng tìm kiếm thông tin trên trang mạng này. 
Tuy nhiên, có một thực tế là chỉ sau vài tuần sau khi bị các trang mạng mạnh tay xóa bỏ thì các tài khoản lan truyền thuyết âm mưu đã xuất hiện trở lại, mặc dù có giảm đi. Theo New York Times  cho biết, có khoảng 100 nhóm QAnon trên Facebook mà New York Times theo dõi vẫn tăng trưởng với số lượng khoảng 13.600 thành viên mới mỗi tháng. Con số này thấp hơn một chút so với số liệu trước khi bị Facebook xóa bỏ, vào khoảng 15.000-25.000 thành viên mới/tháng. Và dù ít đi nhưng  số lượt tương tác trong các nhóm QAnon vẫn tăng lên. Sau khi Facebook chặn các nhóm QAnon, số lượt tương tác ở các nhóm nói trên tăng từ 530.000 lên 600.000 lượt/tuần.
Liên minh chống bôi nhọ (ADL), tổ chức chuyên chống lại các phát ngôn và hành động thù hận cho biết họ đã gây sức ép từ lâu với Facebook về các nhóm vũ trang và cực đoan trên nền tảng này. ADL còn công khai danh sách những nhóm họ đánh giá là cực đoan trên trang của mình.  Không chỉ Facebook, ADL cũng phối hợp với các nền tảng khác như Twitter, Reddit, TikTok và YouTube.
Theo các chuyên gia, điều đáng lo ngại là hiện nay QAnon và nhiều nhóm phát tán thuyết âm mưu khác đang bị nhiều phe phái lợi dụng, nhiều chính trị gia cũng lợi dụng QAnon để tô bóng tên tuổi cho mình và điều này làm cho các thuyết âm mưu tai hại cứ tiếp tục được sản sinh. Và hệ quả khôn lường là nếu các thuyết âm mưu phi logic, phi thực tế cứ lan rộng thì sẽ có thể làm nảy sinh các “thế giới” song song, có thể hình thành nên những chính quyền “ảo” trong thời gian không xa./.

 

Theo TTXVN

Share:

NHẠC THIÊN GIỚI - MÓN QUÀ CHỮA LÀNH CHO NHÂN LOẠI


via IFTTT
Share:

Kích hoạt Thân Ánh Sáng | Phản bổn hoàn nguyên 🌴 8D Audio 🎧 Nhớ dùng Headphones


via IFTTT
Share:

NGÔN NGỮ CỦA ÁNH SÁNG | THE LANGUAGE OF LIGHT 🌴 Best 8D Audio 🎧 Nhớ dùng Headphones


via IFTTT
Share:

Ngàn năm một kiếp người


via IFTTT
Share:

Lưu trữ Blog

Translate