Chữa trị các bênh đau đầu bằng Yoga mật chú chữa bệnh và bằng Yoga thông thường .


Trong bài này trình bày các loại bệnh đau đầu thường gặp loại trừ bênh đau đầu Migraine đã được trình bày trong một bài riêng biệt.
I.Đau đầu dạng căng thẳng.
1. Khái niệm vễ bệnh đau đầu dạng căng thẳng .Bệnh đau đầu dạng căng thẳng còn gọi là đau đầu căng cơ hay đau đầu tâm lý . Đây là một dạng đau đầu thường gặp nhất. Nó chiếm tỉ lệ từ 60-90% trong bệnh lý đau đầu. Bệnh lý này thường khởi phát theo sau giai đoạn bị kích thích hoặc căng thẳng tâm lý, mệt mỏi, hoặc trầm cảm.Loại bệnh này thường đau ở hai bên đầu, đau thường xuyên, không có cảm giác đập theo mạch nẩy. Cảm giác căng hoặc siết chặt ở các cơ vùng đầu và cổ. Đau đầu kiểu bị nén ép hoặc ê ẩm ở đầu, tăng nhạy cảm đau xung quanh đầu. Đau thường lan tỏa khắp đầu. Thường khó chịu nhất ở phần sau đầu (vùng chẩm) và vùng cổ. Đau đầu thường nặng hơn khi kèm theo stress, mệt mỏi, tiếng ồn, hoặc vào cuối ngày. Có hai dạng đau đầu căng thẳng thường gặp. Đó là dạng đau thành cơn với đặc tính cơn xuất hiện ngẫu nhiên, thỉnh thoảng, và dạng đau mãn tính với biểu hiện đau đầu hơn 15 ngày trong 1 tháng và kéo dài hơn 3 tháng liên tục.
Migraine và đau đầu dạng căng cơ từng cơn từ lâu được coi là hai bệnh lý riêng biệt. Tuy nhiên, một số bác sĩ lâm sàng và dịch tễ học cho rằng migraine và đau đầu dạng căng thẳng là các bệnh lý có liên quan với nhau và chỉ khác nhau ở độ nặng hơn là ở thể loại. Cả migraine và đau đầu dạng căng thẳng đều có thể là những cơn đau đầu lành tính tái diễn. Đa số các bệnh nhân migraine (62%) cũng có đau đầu dạng căng thẳng và 25% bệnh nhân đau đầu dạng căng thẳng cũng có migraine. Một cơn đau đầu migraine có thể khởi phát như đau đầu dạng căng thẳng rồi sau đó mới phát triển thêm các đặc tính của migraine khi mức độ đau tăng lên.
Chứng đau đầu làm ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt và công việc thường ngày của người bệnh. Nó làm giảm đi hiệu suất công việc, giảm khả năng tập trung. Trong cơn đau, người bệnh dễ bị cáu gắt, bực bội, sây sẩm kéo dài, mệt mỏi, ăn uống không ngon miệng. Đau đầu căng thẳng mạn tính có thể dẫn đến rối loạn giấc ngủ, sụt cân, suy giảm khả năng tập trung.
2. Cơ chế của bệnh đau đầu dạng căng thẳng.
Trước đây, nguyên nhân của đau đầu căng thẳng được lý giải là do tình trạng gia tăng sự co thắt của các nhóm cơ ở đầu. Ngày nay, các nhà khoa học đã xác định rằng chứng đau đầu này không liên quan trực tiếp đến sự co cơ, mà nguyên nhân chình là do sự thay đổi bất thường của ngưỡng nhạy cảm đau ở các tế bào neuron thần kinh cảm giác.Đau đầu xuất hiện khi các cấu trúc cảm nhận đau ở đầu bị kích thích. Chúng được phận bố nhiều ở màng não, hệ thống mạch máu não, cấu trúc da và các cơ bám da đầu.
Nghiên cứu gần đây của cơ chế nitric oxide (NO ) cho thấy NO có thể đóng một vai trò quan trọng trong sinh lý bệnh của đau đầu dạng căng thẳng . Sự nhạy cảm đau có thể được gây ra bởi (hoặc liên quan đến) sự hoạt hóa của enzym tổng hợp nitric oxide ( NOS) và sự sản sinh ra NO. Cơ chế bệnh sinh có liên quan đến sự kích thích của các tế bào thần kinh trung ương đặc biệt là các nhân của dây thần kinh sinh ba,đồi thị và vỏ não.
Các yếu tố cảm xúc, stress và căng thẳng về tinh thần có liên quan mật thiết với chứng đau đầu căng thẳng. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các stress tâm lý làm khởi phát đau đầu căng thẳng và các liệu pháp tâm lý thư giãn giúp làm dịu bớt cơn đau đầu. Sự lo âu và trầm cảm làm giảm đi khả năng chịu đựng đau của bệnh nhân, do đó họ rất dễ có cảm giác đau đầu.
3. Hóa giải bệnh đau đầu do căng thẳng bằng Yoga mật chú chữa bệnh.
Dùng mật chú gọi siêu quang hoặc Phật quang thực hiên các tác động sau.
- Thanh lọc toàn bộ cơ thể.
- Thanh lọc can (gan ) và tâm (tim ) Nếu can dương khí và tâm dương khí cao,tác động vào can tăng cường can âm khí, tác động vào tâm tăng cường tâm âm khí.
- Thanh lọc hóa giải bệnh tất cả các cơ vùng chẩm,vùng thái dương, các cơ quanh hốc mắt .
- Tác động vào tất cả các mạch máu của não bộ ,hóa giải bệnh , hóa giải viêm nhiễm ở các mạch máu, ức chế sự dãn mạch.Tập trung chú vào các mạch máu chẩm, vùng thái dương và vùng gần hai hốc mắt.
- Thanh lọc não bộ và các dây thần kinh não bộ.Hóa giải bệnh , hóa giải viêm nhiễm ở não và các dây thần kinh não .
- Thanh lọc, hóa giải bệnh, hóa giải viêm nhiễm ở các dây thần kinh vùng chẩm, dây thần kinh sinh ba và các dây thần kinh quanh hốc mắt.
II. Đau đầu từng chuỗi.
1. Khái niệm về đau đầu chuỗi. Đây Là một loại đau đầu gặp chủ yếu ở nam giới tuổi trung niên và phần lớn là có hút thuốc. Các cơn đau xuất hiện sau khi ngủ từ 1 đến 3 giờ và khi tỉnh dậy, bệnh nhân đã thấy đau đầu nặng. Các cơn đau hay tái phát, ngày có thể đau nhiều lần và kéo dài nhiều ngày hay nhiều tuần liền. Cơn đau chỉ khu trú ở một nửa đầu, đau nhiều ở sau mắt lan ra trán và thái dương, cảm giác đau ở sâu và không đập theo nhịp mạch. Có thể kèm theo các triệu chứng như mặt nề, chảy nước mắt, ngạt mũi, chảy nước mũi, ra nhiều mồ hôi, sa mí mắt và co đồng tử cùng bên, không buồn nôn và nôn.
2. Cơ chế đau đầu chuỗi.
a. Thuyết mạch máu.Theo lịch sử, cũng như đau đầu Migraine ,đau đầu chuỗi đã được phân loại là đau đầu do mạch máu . Trong nhiều thập kỷ , người ta cho là cơn đau dữ dội xảy ra do sự giãn nở của các mạch máu, tạo ra áp lực lên các dây thần kinh sinh ba . Thuyết này được cho là nguyên nhân trực tiếp của đau đầu,tuy vậy bệnh căn vẫn chưa được hiểu đầy đủ và đau đầu chuỗi vẫn là một đối tượng nghiên cứu và tranh luận .
b. Thuyết rối loạn chức năng vùng dưới đồi .
Lý thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là đau đầu chuỗi xảy ra do rối loạn chức năng của vùng dưới đồi. Giáo sư Peter Goadsby , một chuyên gia Úc về bệnh học đã phát triển lý thuyết này . Điều này có thể giải thích tại sao nhức đầu chuỗi thường xuyên có thể tấn công vào cùng thời điểm mỗi ngày , và trong một mùa cụ thể . Một trong những chức năng vùng dưới đồi là điều chỉnh đồng hồ sinh học . Vùng dưới đồi nhạy cảm với ánh sang và rất nhiều các kích thích khác : các kích thích khứu giác, bao gồm steroid sinh dục và corticosteroid ;thông tin dẫn truyền bằng thần kinh đặc biệt là từ tim, dạ dày và hệ thống sinh sản; các tín hiệu vào mang tính khu vực; các kích thích phát sinh ở đường máu bao gồm leptin, ghrelin, angiotensin, insulin, các hóc môn tuyến yên, các cytokine, nồng độ glucose trong huyết tương máu, độ thẩm thấu và cuối cùng là stress.Polypeptide trong mạch máu ruột ( Vasointestinal polypeptide, VIP), chất P và calcitonin peptide liên quan đến gen cũng có thể góp phần trong đau đầu chuỗi . Những sự nhạy cảm đặc biệt này có thể là nguyên nhân căn bản hoặc làm khởi phát đau đầu chuỗi .
3. Hóa giải bệnh đau đầu chuỗi bằng Yoga mật chú chữa bệnh.
-Thanh lọc toàn bộ cơ thể.
-Thanh lọc và tác động vào tất cả các mạch máu của não bộ ,hóa giải bệnh , hóa giải viêm nhiễm ở các mạch máu, ức chế sự dãn mạch.Tập trung chú ý vào các mạch máu vùng gần hai hốc mắt và vùng thái dương .
-Thanh lọc não bộ và các dây thần kinh não bộ.Hóa giải bệnh , hóa giải viêm nhiễm ở não và các dây thần kinh não . Tập trung chú ý vào vùng dưới đồi.
-Thanh lọc, hóa giải bệnh, hóa giải viêm nhiễm ở các dây thần kinh sinh ba và các dây thần kinh quanh hốc mắt.
III. Đau đầu kèm theo các bệnh mạch máu.
1.Đau đầu do thiểu năng tuần hoàn máu não.
a.Khái niệm về bệnh. Với loại đau đầu này, người bệnh thấy đau sau gáy, vùng chẩm, đôi khi đau âm ỉ hoặc từng cơn lan lên nửa bên đầu. Đau có kèm theo chóng mặt và rối loạn thăng bằng, cảm giác lảo đảo thoáng qua hoặc xoay tròn kiểu rối loạn tiền đình. Các cảm giác trên có thể thoáng qua hoặc tăng lên khi thay đổi tư thế và kéo dài nhiều giờ đến vài ngày. Cảm giác đau có thể tự hết hoặc mất đi khi dùng thuốc chữa triệu chứng . Đau đầu cũng có thể kèm theo rối loạn vận nhãn, nhìn đôi, nhìn sang hai bên mờ hoặc có ám điểm kéo dài trong vài giây vài phút. Các triệu chứng này xảy ra đột ngột khi từ nằm chuyển sang ngồi hoặc đứng. Có thể gặp ảo thị. Ngoài ra còn có thể có các rối loạn vận động, cảm giác hai chân như bị lấy đi đột ngột, không chóng mặt, không rối loạn ý thức, xảy ra khi ngửa đầu hoặc quay đầu đột ngột, gây thiếu máu thoảng qua ở cột tháp vùng hành não. Một số triệu chứng khác có thể gặp như ù tai, giảm thính lực một bên hoặc hai bên thoáng qua. Rung giật nhãn cầu, hội chứng tiền đình, chóng mặt buồn nôn và nôn…
b. Nguyên nhân bệnh.
Não được nuôi dưỡng bởi hai hệ động mạch chính: hệ động mạch cảnh ở phía trước chi phối toàn bộ phần lớn bán cầu đại não và hệ động mạch đốt sống thân nền ở phía sau. Hệ cảnh có tuần hoàn bàng hệ phong phú nên khả năng bù trừ tương đối tốt, ít có biểu hiện triệu chứng của thiểu năng tuần hoàn não hệ cảnh. Các triệu chứng của thiểu năng tuần hoàn não hay gặp biểu hiện của hệ động mạch đốt sống thân nền vì cung lượng máu đến động mạch đốt sống chỉ bằng 10% cung lượng máu đến động mạch cảnh và vận tốc lưu thông ở đây cũng kém hơn. Thiểu năng tuần hoàn não hệ động mạch đốt sống thân nền là một bệnh rất hay gặp ở lứa tuổi trên 50. Nguyên nhân hay gặp nhất là do vữa xơ động mạch. Vữa xơ động mạch khu trú tại nơi xuất phát của động mạch não sau hoặc chỗ phân đôi của các động mạch, đoạn cuối động mạch đốt sống. Khi gặp các yếu tố kết hợp khác như huyết áp động mạch thấp sẽ có những biểu hiện của triệu chứng thiểu năng tuần hoàn não. Một nguyên nhân gây thiểu năng tuần hoàn động mạch đốt sống thân nền đó là tình trạng thoái hoá cột sống cổ, tuỳ mức độ thoái hoá khớp, mấu gai bên đốt sống gây chèn ép động mạch đốt sống. Đặc biệt một số động tác như quay đầu cổ đột ngột, hoặc gập cổ quá mức có thể chèn ép gây cản trở đường đi của động mạch đốt sống đối bên ở đoạn cổ (C1).
c. Hóa giải bệnh đau đầu do thiểu năng tuần hoàn não bằng Yoga mật chú chữa bệnh.
c1.Trường hợp do xơ vữa động mạch .
-Dùng siêu quang (paralight) tiêu hủy hoặc Phật quang (Buddalight) tiêu hủy các lớp xơ vữa ở động mạch đốt sống, các động mạch cảnh và các động mạch máu não, tập trung chú ý vào động đốt sống và động mạch não sau .
- Dùng siêu quang hoặc Phật quang thực hiện các tác động sau. Thanh lọc,hóa giải bệnh, tăng cường độ bền dẻo của các thành mạch ở động mạch đốt sống ,các động mạch cảnh và các động mạch máu não, tập trung chú ý vào động mạch đốt sống và động mạch não sau .
-Thanh lọc , hóa giải bệnh, phục hồi các chức năng đã bị tổn thương ở toàn bộ não bộ và các dây thần kinh não .
c2.Trường hợp thoái hóa các đốt sống cổ.
Dùng siêu quang hoặc Phật quang thực hiện các tác động sau. -Thanh lọc, hóa giải viêm nhiễm , hóa giải bệnh ở toàn bộ các đốt sống cổ và các dây thần kinh ở cổ. Phục hồi sụn khớp, màng khớp và các chức năng đã bị tổn thương ở các đốt sống cổ.
- Thanh lọc , hóa giả bệnh , hóa giải viêm nhiễm, phục hồi các chức năng đã bị tổn thương ở các động mạch đốt sống .
-Thanh lọc , hóa giải bệnh, phục hồi các chức năng đã bị tổn thương ở toàn bộ não bộ và các dây thần kinh não .
2. Đau đầu do xuất huyết não không do chấn thương.
a. Khái niệm về bệnh .Người ta phân biệt chảy máu nhu mô não và chảy máu dưới nhện .Chảy máu nhu mô thường hay gặp ở tuổi 45 - 50. Dấu hiệu bắt đầu là đau đầu nhiều, đau đột ngột hay xảy ra ban ngày sau một gắng sức thể lực, tinh thần. Bệnh nhân có biểu hiện của rối loạn ý thức, thường suy giảm ý thức nhanh chóng cho đến hôn mê. Đau đầu mức độ bình thường nhưng 70 - 80% bệnh nhân có nôn. Nhịp thở không đều, thở ngáy, mạch nhanh, huyết áp tăng.
Chảy máu dưới màng nhện thường gặp ở tuổi 20 - 40. Dấu hiệu bắt đầu là đau đầu thoáng qua; thường phát đột ngột kèm theo cảm thấy có cú đánh trong đầu, có biểu hiện thay đổi ý thức. Đau đầu thường không dữ dội, có thể có nôn (dưới 50%). Người bệnh thở kiểu cheynstokes ( gồm 3 thì, biên độ hơi thở tăng dần, biên độ thở giảm dần, ngưng thở một thời gian ngắn rồi lặp lại chu trình ).Mạch nhanh có khi tới 100 lần/phút. Nghe tim không thấy gì đặc biệt. Huyết áp có hoặc không đo được.
Biểu hiện thường gặp khi bị xuất huyết não.Khi xảy ra sự vỡ động mạch não, máu động mạch bị đẩy mạnh ra mô não ở xung quanh, thành ổ chảy máu đường kính thường lớn hơn 1,5cm ở thân não và hơn 3cm nếu ở đại não. Máu đông lại thành cục máu tụ, gây chèn ép những vùng não lân cận, làm hoại tử hoặc thiếu máu cục bộ, gây phù nề. Chảy máu não có thể lấn chiếm và choán chỗ những khu vực trống, dễ xâm nhập, có thể đến tận vùng nền não thất IV, nơi có nhiều trung tâm của các chức năng quan trọng cho sinh mạng.
b. Hóa giải bệnh đau đầu do xuất huyết não bằng Yoga mật chú chữa bệnh.
-Cầm máu . Dùng mật chú gọi siêu quang hoặc Phật quang tác động vào vùng tổn thương mạch hoặc vùng mạch chảy máu để cầm máu.
-Tiêu hủy khối máu tụ gây tắc mạch hoặc chèn ép các vùng não .
-Hóa giải viêm nhiễm, phục hồi các tổn thương ở các vùng não bị tổn thương.
-Hóa giải các nguyên nhân gây xuất huyết não.Tác động làm giảm huyết áp nếu nguyên nhân bệnh là do huyết áp cao (chiếm 50-60% ). Trong trường hợp chảy máu não do hồng cầu thấp chúng ta xem xét hai nguyên nhân làm giảm hông cầu.Nếu hông cầu thấp gây ra do các bệnh nhiễm trùng ( cúm , sởi, quai bị, viêm gan siêu vi, viêm đông mạch, viêm đa khớp ...),cần phải tác đông hóa giải các bệnh nhiễm trùng này. Khi hồng cầu thấp do các bệnh tủy sống (suy tủy, xơ tủy, ung thư tủy ),nhất thiết phải tác động hóa giải các bệnh tủy sống.
3.Đau đầu do viêm động mạch.
a. Khái niệm về bệnh.
Đau đầu tập trung ở vùng thái dương, thường là đau một bên, đôi khi cả hai bên . Cơn đau xuất hiện một cánh tự nhiên hay do một kích thích dù là rất nhẹ vào da đầu như chải đầu , đeo kính, gãi đầu.Đau có tính chất dai dẳng, tê buốt như kim châm. Đau tập trung ở vùng thái dương, có thể lan tỏa ra cả vùng trán, hốc mắt hoặc đỉnh chẩm cùng bên. Đau tăng lên khi lạnh, đau nhiều về đêm làm mất ngủ. Thỉnh thoảng có những cơn kịch pháp, dữ dội nhu khoan, như dùi ở vùng thái dương, làm cho bệnh nhân không chịu nổi phải ôm đầu, vật vã, kêu la. Cơn kịch phát có thể kéo dài 2-3 giờ, trung bình 1-2 cơn trong một ngày. Quan sát thấy vùng thái dương của người bệnh hơi sưng nề, da đỏ, đồng thời có cảm giác một đoạn mạch máu dày, cứng, ngoằn ngèo, mạch đập yếu hoặc không đập, ấn rất đau. Đây là biểu hiện của viêm đông mạch thái dương nông, tuy nhiên ở đầu ngoài động mạch thái dương bị tổn thương thì một số động mạch khác như động mạch mắt, động mạch chẩm, động mạch mặt cũng bị viêm làm cho bệnh nhân đau đớn nhiều. Tuy vậy viêm động mạch thái dương chỉ là trọng tâm khu trú của một bệnh viêm nhiều động mạch, bệnh Horton. Đây là bệnh viêm đông mạch toàn thân, trong đó 1/3 trường hợp là viêm đông mạch thái dương nông và các nhánh của động mạch cảnh ngoài.
Cùng với đau đầu ,bệnh Horton thường kèm theo nhiều rối loạn ở mắt. Các triệu chứng về mắt gặp nhiều là phù nề gai thị, tắc động mạch võng mạc trung tâm, nhìn đôi, thị trường thu hẹp, ám điểm trung tâm, đau hố mắt, sợ ánh sáng, lác mắt, mù thoảng qua, màn sương mù trước mắt, ảo thị, rối loạn thị trường... và cuối cùng là mù hẳn. Những biến chứng này có thể xuất hiện đột ngột, tiến triển nhanh, không hồi phục làm mất thị lực chỉ trong vòng vài giờ đến vài ngày nếu không được điều trị
Ngoài đau đầu và các rối loạn ở mắt, bênh Horton còn có những biểu hiện giả viêm đa khớp gốc chi, người bệnh đau nhiều khớp, đặc biệt là đau khớp vai hai bên, song không bị hạn chế vận động khớp. Bệnh còn một số triệu chứng khác như mất ngủ, chán ăn, gầy sút và sốt, đôi khi hâm hấp sốt, có khi sốt rất cao. Suy nhược, chán ăn, gầy sút.
Có nhiều giải thiết cho nguyên nhân gây bệnh. Horton và Frangenheim cho rằng bệnh do vi khuẩn đặc hiệu gây ra ,nên xếp nó vào nhóm bệnh u hạt nhiễm khuẩn (granulome infercteeusr).Zeek, Morrison Abithol cho là bệnh dị ứng quá mẫn. Gần đây, Sauerruch, Dorstelman cho là bệnh tự miễn. Có nhiều người ủng hộ thuyết cho là bệnh Horton có nguồn gốc của một bệnh tự miễn .
b. Hóa giải bệnh đau đầu do viêm động mạch bằng Yoga mật chú chữa bệnh.
Dùng mật chú gọi siêu quang (paralight) hoặc Phật quang (Buddalight) thực hiện các tác đông sau.-
-Thanh lọc toàn bộ cơ thể và các động mạch của cơ thể . Ức chế sản sinh ra các kháng thể tự miễn gây viêm ,hóa giải viêm nhiễm, tăng cường độ bền dẻo của các thành động mạch. Tập trung nhiều chú ý vào đông mạch thái dương nông, động mạch mắt, động mạch mặt và động mạch chẩm.
-Hóa giải viêm nhiễm , hóa giải bệnh ở mắt,võng mạc , gai thị,thần kinh mắt và các cơ vận mắt.
- Hóa giải viêm khớp ,viêm các dây thần kinh khớp ở các khớp vai và các khớp háng. Tập trung chú ý vào hai khớp vai.
IV. Hóa giải bệnh đau đầu bằng Yoga thông thường.
1.Các thế (Asanas) . Các thế thư giãn: xác chết(Shavasana), thế cao cấp (Jyestikasana,superior pose ),cá sấu (Makarasana, crocodile), cá bơi (Matsya Kridasana,flapping fish).Các thế tăng cường hoạt đông của các khớp: uốn cong các ngón chân (padanguli naman ),uốn cong cổ chân (goolf naman ), quay cổ chân (goolf chakra ),quay đầu gối (janu chakra ),nửa bướm (ardha titali asana ),quay hông (shroni chakra ), bướm (titali asana ),nắm tay (mushtika bandhana ), uốn cổ tay (Manibandha naman ) ,quay cổ tay (manibandha chakra ),uốn khửu tay (kehuni naman ),quay khớp vai (skandha chakra ), di động cổ (greeva sanchalana ). Cây dừa (Tadasana,palm tree pose),cây dừa nghiêng (Tiryaka Tadasana ), con thỏ (Shashankasana ), bán vặn cột sống (Ardhamatsyendrasana).
2. Kỹ thuật thở(Pranayama ). Thở làm sạch các đường dẫn năng lượng (Nadi Shodhana ),thở ong kêu (Bhramari), thở tâm lý (Ujjayi ),thở làm lạnh (Sheetali ).
3. Ngủ tâm lý (Yoga Nidra ).
Share:

Lưu trữ Blog

Translate