Sử thuyết HÙNG VIỆT



    Nghĩ thuyền hà thạch tố thanh ba

    Lũng lại tranh nghênh xứ Bái qua

    Lô Thủy phân ( phiên ) ly Thao tục ( tụ ) Lạc

    Văn lang nhật nguyệt Thục sơn hà

                                        (Phạm sư Mạnh  thế kỷ 14)
                                                      *****


 Thiên hạ họ HÙNG

Hùng Việt sử ca – mở đầu

Mảnh đất Việt vạn năm văn hiến
Buổi bình minh trời biển non sông
Có nghe con Lạc cháu Hồng?
Chuyện cha ông thủa vua Hùng đau thương.
Nước nhà còn nhưng hồn đâu mất?
Sử vạn năm phút chốc đổi trao
Bụi thời gian mờ mịt sao
Tẩy sơn, gạt bụi lại cao ngàn trùng

1.   Theo đại việt sử ký toàn thư có viết
 Đại Việt Sử ký Toàn thư. Quyển I. Kỷ Hồng Bàng thị : "Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam)"


Vậy Hồ Động đình ở đâu ???

Hồ Động Đình (chữ Hán: 洞庭湖; bính âm: Dòngtíng hú; Wade-Giles: Tung-t'ing Hu) là một hồ lớn, nông ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Đây là hồ điều hòa của sông Dương Tử (hay Trường Giang). Kích thước của hồ phụ thuộc vào mùa, nhưng về tổng thể nó là một trong số bốn hồ nước ngọt có diện tích bề mặt lớn nhất tại Trung Quốc, cùng các hồ như Bà Dương, Hô LuânThái Hồ. Tên của hai tỉnh Hồ BắcHồ Nam được đặt căn cứ theo vị trí của 2 tỉnh này so với hồ. Hồ Bắc nghĩa là phía bắc hồ và Hồ Nam nghĩa là phía nam hồ.



Địa lý

Hồ Động Đình chủ yếu do các hồ Đông Động Đình, Vạn Tử, Mục Bình, Đại Thông, Hoành Lĩnh, Lộc tạo thành.
Cứ vào thời kỳ tháng 7–9, nước lũ trên sông Dương Tử chảy vào hồ làm tăng diện tích hồ. Diện tích bình thường của hồ từ 2.820 km² có thể tăng lên 20.000 km² vào mùa lũ. Hồ này cũng được bốn con sông khác đổ nước vào là các sông Tương Giang (湘江), Tư Giang (資江), Nguyên Giang (沅江) và Lễ Thủy (澧水). Ngoài ra, sông Tiêu (瀟) đổ vào sông Tương gần Trường Sa trước khi sông Tương đổ vào hồ. Tàu thuyền đi biển có thể đi từ sông Tương tới Trường Sa.

Lịch sử

Trong thời nhà Hán, đầm lầy lớn Vân Mộng (雲夢大澤 - Vân Mộng đại trạch) nằm ở phía bắc hồ Động Đình, ở tỉnh Hồ Bắc, là nơi chứa lũ của sông Dương Tử. Phù sa mầu mỡ lắng đọng của đầm đã thu hút nông dân. Người ta đã xây đập ngăn giữa hồ và sông, và vùng hồ Động Đình ở phía nam sông Dương Tử đã dần trở thành hồ điều hòa chính của con sông.
Thời đó, Động Đình là hồ lớn nhất Trung Quốc. Do kích thước của hồ, hồ đã có tên Bát bách lý Động Đình (八百里洞庭 - Hồ Động Đình tám trăm dặm). Ngày nay, Động Đình là hồ lớn thứ hai sau hồ Bà Dương (鄱陽湖), do nhiều phần đã bị biến thành đất trồng trọt.

Văn hóa và thần thoại

Khu vực này nổi tiếng trong lịch sửvăn học Trung Hoa. Người ta cho rằng các cuộc đua thuyền rồng bên phía bờ đông của hồ được bắt nguồn từ việc tìm kiếm thi thể của Khuất Nguyên (屈原), nhà thơ nổi tiếng người nước Sở (340-278 TCN), và rằng có một vị Long vương sống dưới đáy hồ, theo truyền thuyết Lĩnh Nam chích quái là ông ngoại của Lạc Long Quân.
Quân Sơn (君山), trước là một nơi ẩn cư của các Đạo sĩ, là một đảo nổi tiếng nằm giữa hồ với chiều rộng 1 km và 72 đỉnh núi. Hòn đảo này còn nổi tiếng với loại trà Quân Sơn Ngân Châm (君山银针). Lòng hồ Động Đình và khu vực lân cận nổi tiếng với phong cảnh đẹp, được tóm gọn trong bốn chữ Tiêu Tương Hồ Nam (瀟湘湖南 - vùng Hồ Nam của sông Tiêu và sông Tương).
Phong cảnh núi Cửu Nghi (九嶷山) và hai con sông Tiêu, Tương dưới chân núi thường được nhắc đến trong thơ Trung Quốc. Vào thời nhà Tống, việc vẽ tranh phong cảnh vùng này thành một bộ tám bức đã trở thành một trào lưu. Trào lưu này đã lan sang Nhật Bản, nơi những địa điểm nổi tiếng khác đã được thay thế cho sông Tiêu và sông Tương.

Vị trí của hồ Động đình trong sử Việt

Theo các nghiên cứu và các kết quả khảo sát trong những năm 1980-1990 của nhà nghiên cứu Yên tử cư sỹ Trần Đại Sỹ (Biên cương nước Việt) thì hồ Động Đình chính là nguồn cội của tộc Việt/Bách Việt:
"Vua Kinh-Đương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữ đẻ ra thái tử Sùng-Lãm. Thái tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai. Khi vua Kinh Đương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-lang. Nước Văn-lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, Tây giáp Ba-thục, Đông giáp biển Đông-hải "...tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên như Âu Việt, Lạc Việt, Đông Việt, Nam Việt, Việt Thường đều thuộc Bách Việt cả. Cái tên trăm họ, hay trăm Việt (Bách Việt) phát xuất từ huyền thoại nói vua Lạc Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay ..." Theo kết luận trên, biên cương phía bắc của Văn Lang là tới hồ Động Đình, xa hơn đỉnh Ngũ Lĩnh vài trăm dặm về phía Bắc

Nguồn :http://vi.wikipedia.org


Vậy Vùng Ba Thục ở Đâu ???

Đầu đời nhà Hán có một nước Miêu ở về phía Nam tên gọi là Dạ Lang chiếm một phần tỉnh Quảng Tây và và phần lớn tỉnh Quý Châu hiện nay. Nước Dạ lang giáp quận Ba Thục và một mặt thì giáp hồ Động Đình Về phía Tây giáp nước Điền của người Lô Lô miền Tây tỉnh Vân Nam bấy giờ, phía Đông hồ Vân Nam. Nước cổ Dạ Lang từng phồn thịnh hàng trăm năm trên cao nguyên Quý Châu.
Thế kỷ thứ 2 TCN, nhà sử học Tư Mã Thiên đi theo sứ giả của nhà Hán đến thực thi sứ mệnh ngoại giao tại các chính quyền dân tộc thiểu số ở miền Tây Nam TQ. Trong “ Sử ký -Tây Nam Di Chí” của Tư Mã Thiên ghi lại rằng, trong các bộ tộc Tây Nam, Dạ Lang có thế lực hùng mạnh nhất, có 100 nghìn lực lượng tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông, quanh cảnh hết sức tấp nập. Lúc đó Đại Hán thống trị phần lớn khu vực Trung nguyên, Dạ Lang nằm trong miền núi xa xôi hẻo lánh.
Năm 136 TCN Vũ đế cử Đường Mông làm Lang trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua Phù quan (Hợp giang, Tứ xuyên) đến Dạ lang. Đường Mông tuyên truyền với Dạ lang hầu Đa Đồng về sức mạnh của Hán triều, ban tặng của cải để Dạ lang hầu cho phép Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai Dạ Lang hầu làm Lệnh (tương đương huyện lệnh).
Năm 130 TCN Vũ đế xuống lệnh đặt thành quận cả khu vực nói trên và chọn Bậc đạo (An biên trường tây nam thành phố Nghi tân, Tứ xuyên) làm quận lỵ rồi phát động quân sĩ 2 quận Ba Thục tiến hành việc mở đường từ Bậc đạo thông đến sông Tường kha. Người đất Thục là Tư Mã Tương Như lại dâng thư yêu cầu đặt quận huyện tại Cùng (vùng thành phố Tây xương, Tứ xuyên), Trách (vùng huyện Diêm nguyên, Tứ xuyên) thuộc Tây Di. Tư Mã Tương Như được Vũ đế cử làm Trung lang tướng. Tư Mã Tương Như tuyên truyền với các thủ lĩnh dân tộc thiểu số tại địa phương được họ đồng ý cho nhà Hán đặt tại khu vực đó mười mấy huyện và 1 đô úy trực thuộc Thục quận.
Sau khi tiêu diệt Nam Việt, nhà Hán cho 8 hiệu úy chỉ huy các tội nhân tấn công Thả Lan (vùng phía tây nam huyện Hoàng Bình, Quý châu) giết chết mấy vạn người, đặt tại khu vực Nam Di này quận Tường Kha. Dạ Lang hầu thấy Nam Việt bị tiêu diệt liền quy thuận nhà Hán được Vũ đế phong làm Dạ Lang vương. Nước Dạ Lang đã quy phục nhà Hán năm 111 TCN và gọi là quận Kiện Vi. Sau này quận đó chia làm hai, quận Kiện Vi ở phía bắc và quận Thương Ngô ở về phía nam. Quận Kiện Vi phía Bắc và phía Tây giáp sông Dương Tử giang ngăn quận Kiện vi với quận Ba. Còn quận Thương Ngô thì phía Bắc giáp quận Kiên Vi, phía Tây giáp quận Tấn Ninh tức là nước Điền cũ, phía Đông Bắc giáp quận Vũ Lăng tức là quận Kiến Trung đời nhà Tấn. Ở đó có hồ Động Đình.

Tổ tiên của vua Trần là người Mân Việt một trong các tộc người Bách Việt do chạy trốn chiến tranh mới xuống miền BẮc Việt Nam qua nhiều đời đến đời Trần Thủ Độ thì cướp ngôi nhà Lý lập ra nhà Trần . vậy là vua Trần có nguồn gộc Mân Việt cũng thuộc Bách Việt như Lạc Việt thôi có gì mà thất vọng :P(không phải hoa hạ là được) hơn nưa qua nhiều đời sống ở Việt Nam thì cũng là vua Việt Nam thôi . như trường hợp thái tử Lý Long Tường sợ Trần Thủ Độ thủ tiêu chạy trốn sang triều tiên sau này có hậu duệ làm tổng thống Hàn Quốc , sau này còn về Việt Nam bái tổ ở đền thờ vua Lý nữa

Đọc trong sử về thời chống Mổng Cổ, xứ giả Mông Cổ có bảo nhà Trần gốc người Hung Nô 8-}.
Việc các vua nhà Trần có nguồn gốc dân tộc Mân thì đã được xác nhận trong sách lịch sử 
Khi kháng chiến chống quân Nguyên có vài người theo Trần Ích Tắc quy cố hương. Tất nhiên đa số ở lại chống giặc ngoại xâm
Có thể khẳng định chắc chắn nhà Trần đến từ Trung Quốc 
Tất nhiên đến từ Trung Quốc thì ko phải ai cũng là người Hán như Hồ Quý Ly theo tôi thì người họ Trần rất ít có khả năng là người Hán
Do tục xâm mình và tục hôn nhân trong dòng họ ko có trong văn hóa người Hán 
Có lẽ người họ Trần thuộc tộc Bách Việt cổ hay là người Thái ko chừng 
Người Việt thuần chủng rất ít, do chính sách cai trị của TQ nên nước ta nhận rất nhiều người phương Bắc di cư, trên đường Nam tiến cũng có lai với người Chăm người Kơme người TQ di cư vào nam
Việc này ko có xấu cả con lai thường trội hơn bố mẹ , Châu Mỹ điển hình là nước Mỹ cũng đầy con lai đấy thôi 
Có lẽ vì đặc tính này mà người phụ nữ Việt Nam rất đẹp ăn đức những dân tộc tự hào mình là thuần chủng như Hàn Quốc nhiều ! Chúng ta phải tự hào vì nét đa văn hóa giàu bản sắc của dân tộc mình chứ
Xã hội VN thời xưa là xã hội làng xã cho nên dù người TQ có bị đẩy vào đất Việt để đồng hóa thì cũng co cụm lại thành những khu vực, làng của người Việt ra người Việt, người Tàu ra người Tàu, một số ít mới kết hôn với nhau được :|. Cái xã hội làng xã đó đến giờ vẫn còn khá mạnh nên mới có nhiều chuyện bi hài "phép vua thua lệ làng" là vậy :)). Cho nên tỉ lệ lai giữa người Việt và người Tàu không nhiều đâu.

Bách Việt
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Bách Việt (chữ Hán: 百越/百粵; bính âm: bǎi yuè) là từ chỉ các dân tộc Việt cổ đã từng sống ở vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía Nam Trung Quốc, một phần ở thượng du và trung châu miền Bắc Việt Nam. Đây cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các dân tộc này đã sinh sống. Trong tiếng Trung Quốc cổ, các chữ (越, 粵, 鉞) đã thường được dùng thay thế nhau cho nghĩa "Việt". Từ Bách Việt lần đầu tiên thấy chép là trong Sử Ký (Ngô Khởi Truyện) của Tư Mã Thiên[3].
Mục lục [ẩn]
1 Nguồn gốc
2 Đặc điểm và phân loại
3 Hán hóa và chiếm đất
4 Di sản của Bách Việt
5 Cách dùng hiện đại
6 Chú thích
7 Xem thêm
8 Liên kết ngoài

Thời cổ, người Trung Quốc gọi các dân tộc sống ở phía nam sông Trường Giang bằng một cái tên chung là Việt. Bắt đầu từ thời nhà Hán, sử sách thường nói đến cái tên Bách Việt với nghĩa "một trăm bộ lạc Việt". Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình." Nhà sử học Trung Quốc La Hương Lâm (羅香林) đã cho rằng các dân tộc này có cùng tổ tiên với nhà Hạ. Tuy nhiên, các di chỉ khảo cổ học có niên đại thuộc thời đại Đồ Đá Mới (Neolithic) tại Quảng Tây và ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là các ngôi mộ chum được tìm thấy nhiều ở Việt Nam và một số ở Quảng Tây, cho thấy thổ dân bản xứ có nguồn gốc ở phía Nam và có quan hệ gần gũi với các nền văn hóa Hòa Bình (9000-5600 TCN) và Bắc Sơn (8300-5900 TCN) ở Việt Nam [1]. Ngoài ra, có ít bằng chứng rằng các dân tộc Việt có một bản sắc chung nào.
Các nhà ngôn ngữ dân tộc học cho rằng phát âm của từ 越 (Việt, Yue, Yueh) có thể có liên quan đến một loại sợi cây gai dầu (hemp) được làm tại nơi mà nay là Chiết Giang. Chính chữ Việt (越) có liên quan đến chữ "việt" (鉞 - cái rìu lớn, một thứ binh khí thời xưa), thường được coi là biểu tượng của hoàng gia hoặc quyền lực hoàng đế. Nhiều rìu đá đã được tìm thấy tại vùng Hàng Châu, và còn có bằng chứng rằng loại rìu đó là một phát minh của vùng đất phía Nam.
Các sách cổ nói đến nhiều nhóm người Việt, trong đó có Câu Ngô (句吳), Ư Việt (於越), Dương Việt (揚越), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Đông Việt (東越), Sơn Việt (山越), Lạc Việt (雒越, người Kinh ở Việt Nam ngày nay) và Âu Việt (甌越, hay còn gọi là Tây Âu - 西甌). Đa số những cái tên này tồn tại được đến các thời đế chế sơ khai ở Trung Quốc và có thể được giải thích gần đúng là các nhóm văn hóa.
Theo huyền sử Việt Nam, một trăm người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ của các dân tộc Bách Việt. Lãnh thổ nước Văn Lang (hay Lĩnh Nam) của các vua Hùng cũng trùng với vùng đất Bách Việt [2].

Trống đồng Nam Việt lấy từ mộ số 1 La Bạc Loan, Quảng Tây. Trống đồng là biểu trưng quyền lực quốc gia của các tộc Bách Việt.
Nhận thấy các điểm khác biệt quan trọng giữa các nhóm tộc Việt, các học giả Trung Quốc đã cố gắng phân loại các nhóm Việt khác nhau, thường dựa trên phép gọi tên của các học giả Hán cổ hơn. Ở phía Nam vùng Quảng Đông, Quảng Tây, vùng đất mà từ thời nhà Tần đã thường được gọi là Lĩnh Nam, người Hán đã xác định các nhóm với tên Dương Việt, Nam Việt, Tây Âu, Lạc Việt, U Việt, Điền Việt, Dạ Lang, v.v.. Vào đầu thời nhà Hán, Bách Việt được chia thành các nhóm, trong đó: Đông Âu (東甌), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Tây Âu (西甌), Lạc Việt (雒越, 駱越, 貉越) là các nhóm chính.
Đông Âu, sống ở vùng trước là lãnh thổ của các nước Ngô và Việt. (ngày nay là vùng Ôn Châu (溫州), Chiết Giang, Trung Quốc)
Mân Việt, cũng nằm trong lãnh thổ cũ của nước Việt (tỉnh Phúc Kiến ngày nay), được cho là tổ tiên của người Mân ở Trung Quốc hiện đại (những người nói tiếng Mân Nam)
Nam Việt, trong địa bàn tỉnh Quảng Đông ngày nay, về sau phát triển vào địa bàn tỉnh Quảng Tây và vùng phía Nam. Họ được cho là tổ tiên của người Quảng Đông hiện đại.
Tây Âu, trong vùng ngày nay là miền Tây tỉnh Quảng Đông và miền Nam tỉnh Quảng Tây
Lạc Việt, khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay, là tổ tiên của người Việt Nam hiện đại.
Cho đến gần đây, các học giả Trung Quốc mới bắt đầu cố gắng phân biệt các nhóm một cách nghiêm túc hơn. Trong khi nhiều học giả vẫn dựa quá nhiều vào việc trích dẫn các sách cổ, các kết quả khảo cổ học gần đây đã bắt đầu đơn giản hóa quá trình phân tích.
Một số học giả [3] [4]liệt kê các đặc điểm văn hóa của các nhóm tộc Việt như sau:
Tục cắt tóc ngắn và xăm mình
Xây nhà sàn
Trang phục đặc trưng bởi quần ngắn hoặc váy quấn (kilt) và đầu đội khăn xếp (turban)
Chế độ ăn nhiều sò hến và ếch
Tục nhổ răng, thường là răng nanh hoặc răng cửa trên
Tục lệ người cha tham gia quá trình đỡ đẻ, sau đó chăm sóc con nhỏ để người mẹ quay lại với việc làm đồng
Đúc và sử dụng trống đồng trong các nghi lễ
Bói bằng xương chim, đặc biệt là xương gà
Thờ vật tổ, đặc biệt là chim, bò sát, và cóc/ếch
Tục táng trên vách đá
Sử dụng nhiều đến thuyền bè và điêu luyện về thủy chiến
Hình dáng hình học của đồ gốm sứ
Kỹ thuật dệt phát triển cao

Tuy nhiên, không phải tất cả các đặc điểm trên đều có ở mỗi nhóm tộc Việt. Chẳng hạn, người Việt phía Nam dùng trống đồng, còn người Việt phía Bắc thì không. Người Việt ven biển phía Nam Trung Quốc, phía Đông Nam Trung Quốc, cũng như ở Việt Nam, sử dụng rìu đá có vai, còn người ở vùng biển phía Bắc và xa phía Tây Nam Trung Quốc thì không.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng cách phân chia hữu ích nhất là chia các tộc Việt thành hai nhánh:
Nhóm Bắc, phân bố khắp vùng Trung và Bắc Quảng Đông, nối với vùng Bắc và Đông Quảng Tây, và trong thời kỳ đầu còn trải dài lên phía Bắc tới Phúc Kiến, Giang Tây, Chiết Giang và Nam Giang Tô.
Nhóm Nam, với địa bàn trải dài tới vùng mà ngày nay là Tây Nam Quảng Đông, Nam và Tây Quảng Tây, và Bắc Việt Nam.
Các kết quả khảo cổ học có hỗ trợ cho cách phân chia đơn giản này. Các cổ vật đặc trưng cho nhóm thứ nhất, nhóm Bắc, bao gồm đồ gốm hình học (geometric pottery), xẻng đá lớn (large stone shovel), và đồ đồng kiểu Sở. Đặc điểm của nhóm thứ hai, nhóm Nam, là các đồ đồng kiểu tây nam, việc sử dụng các loại dụng cụ đồ đá đa dạng, hầu như không thấy đồ gốm hình học và xẻng đá lớn [5]. Nhóm phía Nam bắt đầu từ Việt Nam và kéo dài theo vùng ven biển lên tới Quảng Đông. [6] Phát triển từ các nhóm văn hóa thời Đồ Đá Cũ bản địa, sự tiếp nối của nhóm này đã được ghi nhận. Đó là các xã hội phát triển cao với một nền tảng nông nghiệp và một bộ đầy đủ các loại đồ gốm và đồ đá. Một điểm khác biệt rõ nét khác để phân tách hai nhóm chính là sự phát triển của một trong những loại cổ vật quan trọng nhất của khu vực: trống đồng được tìm thấy chủ yếu ở các vùng Vân Nam, Quảng Tây, và miền Bắc Việt Nam. Xem thêm bài Trống đồng.
Hướng tới một phân loại cụ thể hơn, các nhà học giả khác đã sử dụng cách chia ba để phân tách các nhóm văn hóa Việt. Ba nhóm này bao gồm:
Nhóm Nam Việt: phân bố tại miền Trung và miền Bắc Quảng Đông, và trong thời kỳ đầu còn bao gồm cả Phúc Kiến, Chiết Giang, và Nam Giang Tô. (trùng với nhóm Bắc của cách chia đôi)
Nhóm Tây Âu, còn gọi là Âu Việt (甌越): phân bố ở các vùng Quế Giang (桂江) và Tây Giang (西江) của Quảng Tây.
Nhóm Lạc Việt: phân bố ở Tây Nam Quảng Đông kéo tới Đông Nam Quảng Tây và Bắc Việt Nam.
Tuy hai nhóm Tây Âu (phía Tây Nam) và Lạc Việt (phía Đông Nam) có thể xếp vào một nhóm khi phân biệt với nhóm Việt phía Bắc, giữa hai nhóm này cũng có những điểm khác biệt quan trọng về cấp độ phát triển. Địa lý là một nhân tố quan trọng để giải thích sự khác biệt này. Phía Tây là vùng đồi núi, do đó, giao thông liên lạc khó khăn và các đa dạng địa phương có thể được bảo tồn lâu dài hay tiếp tục phát triển. Ở miền Đông Nam và các khu vực ven biển, giao thông liên lạc dễ dàng hơn, do đó, sự thâm nhập của các văn hóa bên ngoài cũng dễ dàng hơn, và theo thời gian, các đa dạng văn hóa địa phương có xu hướng phát triển về phía một dạng văn hóa chung. Theo các kết quả khảo cổ học, tuy chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi các nhóm văn hóa vùng Đông Nam Trung Quốc và Việt Nam, các nhóm văn hóa vùng Tây Nam Trung Quốc thể hiện các khác biệt địa phương nổi bật cho thấy một giai đoạn phát triển thấp hơn, đặc biệt về kinh tế nông nghiệp.

Từ thế kỷ 9 trước Công nguyên, hai nhóm Việt ở phía Bắc, Câu Ngô và Ư Việt, bị ảnh hưởng ngày càng nhiều bởi láng giềng Trung Hoa ở phía Bắc. Hai nước này, một nước có lãnh thổ ở phía Nam Giang Tô, nước kia ở vùng Bắc Chiết Giang. Giới quý tộc lãnh đạo học chữ Hán, tiếp nhận các thể chế chính trị và kỹ thuật quân sự Trung Hoa. Người ta đã cho rằng sự thay đổi về văn hóa này là do tể tướng nước Ngô là Ngô Thái Bá (吳太伯) - một vương tử của nhà Chu đã chạy về phía Nam lánh nạn. Vùng đất đầm lầy ở phía Nam đã mang lại cho Câu Ngô và Ư Việt những đặc điểm độc đáo. Họ không chú trọng vào làm ruộng mà dựa nhiều hơn vào nghề thủy sản (aquaculture). Giao thông đường thủy có tầm quan trọng lớn ở phía Nam, do đó hai nước này đã tiến lên trình độ cao về kỹ thuật đóng tầu thuyền và kỹ thuật thủy chiến. Họ còn nổi tiếng với những thanh bảo kiếm.
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, hai nước này, bấy giờ có tên là Ngô và Việt, đã tham gia ngày càng sâu vào chính trị Trung Hoa. Năm 512 TCN, Ngô đánh Sở - nước lớn nhất ở miền Trung sông Dương Tử. Một chiến dịch tương tự đã diễn ra vào năm 506, lần này Ngô chiếm được kinh đô của Sở - thành Dĩnh (郢). Cũng năm đó, chiến tranh nổ ra giữa Ngô và Việt và tiếp diễn thêm 3 thập kỷ nữa. Năm 473 TCN, Việt Vương Câu Tiễn (雒句踐 - Lạc Câu Tiễn) cuối cùng đã đánh bại nước Ngô và được các nước phía Bắc là Tề và Tấn (晉) công nhận. Năm 333 TCN, đến lượt Việt bị Sở diệt.
Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, vùng đất của Bách Việt bị nhập vào đế quốc Trung Hoa. Quân Tần còn tiến xa hơn về phía Nam dọc theo sông Tương (湘江) tới vùng đất nay là Quảng Đông và thiết lập các quận dọc theo các tuyến giao thông chính. Trong suốt thời nhà Hán, có hai nhóm Việt được nhắc đến, đó là Nam Việt ở phía cực Nam, sống chủ yếu tại các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, và Việt Nam; và nhóm Mân Việt ở phía Đông Bắc, tập trung tại sông Mân Giang (閩江) ở vùng Phúc Kiến ngày nay.
Quá trình Hán hóa các dân tộc này được thực hiện bởi sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự đế quốc và định cư của người Hán. Các khó khăn về vận tải và thủy thổ phương Nam đã làm cho việc chiếm đất và cuối cùng là đồng hóa các dân tộc Việt diễn ra một cách chậm chạp. Khi người Hán đến tiếp cận với các dân tộc Việt địa phương, họ thường giành lấy quyền kiểm soát lãnh thổ hoặc khuất phục dân địa phương bằng bạo lực. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa vào năm 40, tướng Mã Viện của nhà Hán đã đem một lực lượng gồm 10.000 quân đến đánh dẹp. Trong khoảng từ năm 100 đến 184 đã có không dưới 7 cuộc nổi dậy bằng quân sự, nhà Hán đã thường phải dùng đến các hoạt động phòng vệ mạnh.
Khi dân nhập cư người Hán tăng dần, các tộc Việt dần dần bị buộc phải chuyển đến những vùng đất xấu hơn ở khu vực miền núi. Tuy nhiên, không giống với các dân tộc du mục ở miền Trung Á, chẳng hạn người Hung Nô hoặc người Tiên Ti (鮮卑), các dân tộc Việt chưa bao giờ là mối đe dọa lớn đối với sự bành trướng hay quyền kiểm soát của người Hán. Đôi khi, họ thực hiện các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào vùng định cư của người Hán - các nhà sử học truyền thống của Trung Quốc gọi đây là "các cuộc nổi loạn". Về phần mình, người Hán coi các dân tộc Việt là những tộc người rất kém văn minh và có xu hướng gây chiến lẫn nhau.
Tuy nhiên, dưới đời nhà Tần và nhà Hán, các tộc Bách Việt vẫn cư ngụ ở vùng đất cũ của họ với các tổ chức xã hội và chính trị của riêng họ, sự cai trị của chính quyền người Hán chỉ là trên danh nghĩa. Từ thế kỉ 4, khi Trung Quốc bắt đầu bị các tộc du mục phương Bắc đánh chiếm - những người đã chiếm được toàn bộ vùng Bắc Trung Quốc và thiết lập Ngũ Hồ thập lục quốc và Bắc triều, chiến tranh đã gây ra những đợt lớn dân di cư từ phía Bắc về đổ về Nam Trung Quốc. Điều này đã tăng tốc quá trình Hán hóa ở vùng Nam Trung Quốc, dân cư địa phương đã dần dần bị nhập vào văn hóa Hán hoặc phải rời đi nơi khác. Theo thời gian, từ "Bách Việt" đã không còn được sử liệu của Trung Quốc nhắc đến. Phần nhiều các tộc Việt đã bị Hán hóa và đồng nhất với người Hán. Một số trở thành tổ tiên của các dân tộc thiểu số như người Cao Sơn (高山族-Cao Sơn tộc) ở Đài Loan, người Tráng, người Bố Y (布依族), người Đồng (侗族), người Hỏa (水族) ở miền Nam Trung Quốc.
Trong khi hầu hết các dân tộc Việt cuối cùng đã bị đồng hóa vào nền văn hóa Hán, người Việt Nam, hậu duệ của nhóm Lạc Việt, đã giữ được bản sắc dân tộc của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự thống trị của Trung Hoa vào thế kỷ 10.

Sự sụp đổ của nhà Hán và giai đoạn phân chia sau đó là đẩy nhanh quá trình Hán hóa. Các giai đoạn bất ổn và chiến tranh ở vùng phía bắc Trung Quốc, như là Nam Bắc triều và trong thời nhà Tống đã dẫn đến nhiều cuộc di dân lớn của người Hán. Hôn nhân giữa các sắc tộc và giao tiếp giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự pha trộn của người Hán và các dân tộc khác ở phía nam. Vào thời nhà Đường, từ "Việt" đã gần như trở thành một địa danh hơn là một từ mang tính văn hóa. Chẳng hạn, trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, một nước tại vùng ngày nay là tỉnh Chiết Giang đã dùng tên nước là Ngô Việt. Cũng giống như vậy, từ "Việt" trong "Việt Nam" có gốc từ chữ "Việt" (越) này.
Ảnh hưởng của văn hóa Việt đối với văn hóa Trung Hoa chưa được khẳng định một cách chính thức, nhưng rõ ràng ảnh hưởng đó là đáng kể. Các ngôn ngữ của những quốc gia cổ như Ngô và Việt đã hình thành nền tảng cho tiếng Ngô hiện đại (吳語 - Ngô văn) và ở một mức độ nào đó cũng là nền tảng cho tiếng Mân (閩方言) - các ngôn ngữ của vùng Phúc Kiến. Các nhà nhân học ngôn ngữ cũng đã khẳng định rằng một số lượng lớn các từ trong tiếng Trung Quốc có nguồn gốc từ các từ Việt cổ. Một ví dụ là từ "giang" (江), nghĩa là "sông". Các con sông ở phía Bắc Trung Quốc đều được gọi là "hà" (河), trong khi các con sông ở phía Nam Trung Quốc được gọi là "giang" (江). Dấu vết của ngôn ngữ Việt, đặc biệt là cấu trúc "tính từ đi sau danh từ" (ngược lại với tiếng Trung Quốc) vẫn còn lại trong các tác phẩm văn thơ kinh điển của Trung Quốc như Kinh Thi[8], và trong tên gọi của các vị thần/vương truyền thuyết của Trung Quốc như Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Khốc.

Ở một mức độ nào đó, một số dấu vết còn lại của các dân tộc Việt và văn hóa của họ còn có thể được thấy trong một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, đặc biệt là người Tráng, và nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Một số học giả cho rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn minh Thần Nông ở phía Nam sông Dương Tử (nghĩa là thuộc vùng đất Bách Việt). Có người còn khẳng định cụ thể hơn rằng đây là sản phẩm của người Âu Việt và Lạc Việt, với các lập luận chẳng hạn như: có thể thấy các khái niệm Kinh Dịch được mã hóa trên các họa tiết trống đồng; một số tên quẻ cũng như diễn giải quẻ của người Trung Quốc từ xưa tới nay đôi khi còn rất mơ hồ.


Share:

Lưu trữ Blog

Translate